Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng
https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb
<p>Lịch sử phát triển<br />Ngày 03 tháng 01 năm 1992, Tờ Thông tin Bỏng ra số đầu tiên<br />Ngày 20 tháng 3 năm 2001, Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Thông tin và Truyền thông) ra Quyết định số 78/GP-BVHTT cấp giấy phép hoạt động báo chí cho Tạp chí Y học Thảm họa và Bỏng thuộc Viện Bỏng Quốc gia Lê Hữu Trác. Kể từ khi ra mắt bạn đọc số đầu tiên cho tới nay, Tạp chí Y học thảm hoạ và Bỏng đã được cấp phép sửa đổi nâng kỳ xuất bản lên 6 số/năm (Giấy phép hoạt động báo chí số 1311/GP-BTTTT, ngày 23/7/2012;) và các số Tạp chí chuyên đề phục các Hội nghị Khoa học.</p> <p>Ngày 18 tháng 12 năm 2009, Tạp chí Y học Thảm họa và Bỏng được Bộ khoa học và công nghệ quốc gia cấp mã số chuẩn quốc tế p-ISSN 1859 - 3461 cho tạp chí loại hình in.</p> <p>Ngày 09 tháng 12 năm 2021: Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng được cấp chỉ số DOI mã số 10.54804</p> <p>Ngày 06 tháng 7 năm 2023: Bộ Thông tin & Truyền thông cấp lại giấy phép hoạt động Tạp chí Y học thảm hoạ và Bỏng (loại hình in) và thực hiện thêm loại hình tạp chí điện tử.</p> <p>Ngày 28 tháng 11 năm 2023, Tạp chí Y học Thảm họa và Bỏng loại hình điện tử được Cục Khoa học và Công nghệ Quốc gia cấp mã số chuẩn quốc tế e-ISSN 3030 - 4008.</p> <p>Tôn chỉ, mục đích hoạt động báo chí: <br />+ Giới thiệu các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học trong lĩnh vực y học thảm họa và bỏng, liền vết thương, phẫu thuật tạo hình, và các chuyên ngành y học khác.<br />+ Thông tin các vấn đề có liên quan về chuyên môn ở trong nước và quốc tế.<br />+ Cung cấp tư liệu cho cán bộ y tế trên toàn quốc và bạn đọc quan tâm<br />+ Đối tượng phục vụ: Các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu, cán bộ quản lý, giảng viên, viên chức, nghiên cứu sinh, học viên cao học, sinh viên và bạn đọc quan tâm. <br />+ Phát hành trên phạm vi toàn quốc</p> <p>Trong thời gian hoạt động, Tạp chí Y học Thảm họa và Bỏng đã thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích, chất lượng ngày càng nâng cao cả về nội dung và hình thức góp phần đẩy mạnh công tác phòng, điều trị và nghiên cứu khoa học về bỏng cho cộng đồng và cán bộ y tế trong toàn quốc, đặc biệt góp phần không nhỏ trong công tác phòng và chống thảm họa thiên nhiên tại Việt Nam. </p> <p>Nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển ngày càng phát triển của khoa học, Tạp chí đã xây dựng ra website Tạp chí Y học Thảm họa và Bỏng phiên bản online phục vụ các nhà nghiên cứu và độc giả thuận tiện hơn.</p> <p>Độc giả có nhu cầu tham khảo chi tiết thông tin bài nghiên cứu khoa học hoặc gửi bài đăng xin vui lòng liên hệ với tòa soạn Tạp chí<br />Tạp chí Y học Thảm họa và Bỏng.<br />Tầng 3 toà nhà Đ2 - Bệnh viện Bỏng Quốc gia Lê Hữu Trác<br />Số 263 Phùng Hưng - Phúc La - Hà Đông - Hà Nội<br />ĐT: 069 566626 * fax: 84.0243 6883180<br />Email: tcbongvn@yahoo.com; thư ký toà soạn: Trần Xuân Việt - 0989536261</p>Bệnh viện Bỏng Quốc gia Lê Hữu Trácvi-VNTạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng1859-3461Giới thiệu bộ công cụ đánh giá bệnh viện quân y an toàn trong thảm hoạ
https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/364
Mục tiêu: Giới thiệu kết quả xây dựng bộ công cụ đánh giá bệnh viện quân y (BVQY) an toàn trong thảm hoạ Đối tượng và phương pháp: Bộ công cụ được xây dựng trên cơ sở cập nhật, bổ sung Bộ công cụ đánh giá bệnh viện an toàn trong thảm hoạ của WHO năm 2008 và 2015; Bộ công cụ đánh giá bệnh viện an toàn trong thảm hoạ của Bộ Y tế năm 2013; các văn bản pháp luật, tiêu chuẩn hiện hành. Tổ chức hội thảo xin ý kiến chuyên gia để hoàn thiện. Kết quả: Bộ công cụ đánh giá BVQY an toàn trong thảm hoạ có kết cấu gồm 224 tiêu chí, chia làm 3 nhóm. Nhóm A: Kết cấu và phi kết cấu liên quan đến kiến trúc; Nhóm B: Hệ thống trang thiết bị công trình đảm bảo an toàn cho người sử dụng; Nhóm C: Quản lý các hoạt động trong tình trạng khẩn cấp và thảm hoạ. Mỗi tiêu chí được đánh giá theo 3 mức: Đạt đầy đủ, đạt chưa đầy đủ và không đạt. Mức độ an toàn của bệnh viện được đánh giá theo 3 mức: Cao, trung bình, thấp dựa trên tổng điểm của tất cả các tiêu chí. Kết luận: Đã xây dựng thành công bộ công cụ đánh giá bệnh viện Quân y an toàn trong thảm hoạ. Cần tổ chức đánh giá thực tế để hoàn thiện và ban hành sử dụng.Nguyễn Như LâmNguyễn Tiến DũngTrần Đình HùngNgô Minh ĐứcLê Quốc ChiểuTrần Quang PhúNguyễn Thái Ngọc Minh
Copyright (c) 2024 Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng
2024-10-282024-10-28571510.54804/yhthvb.5.2024.364Nhận thức và kĩ năng thực hành đáp ứng y tế với thảm hoạ của thành viên các phân đội quân y
https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/358
Mục tiêu: Đánh giá nhận thức và kĩ năng thực hành đáp ứng y tế trong thảm hoạ của thành viên các phân đội quân y. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu được thực hiện trên 333 thành viên của các phân đội quân y của 45 đơn vị. Khảo sát nhận thức được tiến hành bằng bộ câu hỏi tự lượng giá theo thang điểm. Đánh giá kỹ năng thực hành một số cấp cứu thường gặp, kỹ năng phân loại nạn nhân giả định và kỹ năng triển khai các bộ phận của chốt y tế tại hiện trường. Kết quả: Có 33,03% nhận thức chưa đầy đủ về vị trí, chức trách trong kế hoạch đáp ứng y tế trong thảm họa, 31,03% chưa tự tin thực hiện nhiệm vụ. Có 24,62% không đạt yêu cầu thực hiện các kĩ thuật cấp cứu. Tỷ lệ phân loại đúng theo quy trình START là 48,08%. Mức độ nhận thức về chức trách, nhiệm vụ cao hơn có ý nghĩa thống kê ở nhóm nam giới, tuổi > 40, đã được tập huấn và có kinh nghiệm đáp ứng y tế trong thảm hoạ (p < 0,05). Trong khi đó, tỷ lệ tự tin chỉ cao hơn đáng kể ở nhóm đã được tập huấn và có kinh nghiệm (p < 0,05). Kết luận: Nhận thức và kĩ năng thực hành của nhân viên quân y các phân đội quân y còn nhiều hạn chế. Cần mở các lớp tập huấn lý thuyết và thực hành để nâng cao khả năng ứng phó với thảm hoạ.Lương Trung HiếuNguyễn Như LâmTrần Đình HùngNgô Minh ĐứcHoàng HảiNguyễn ĐạiNguyễn Thành ChungLê Quang ThảoNguyễn Thái Ngọc MinhLê Quốc ChiểuNguyễn Tiến Dũng
Copyright (c) 2024 Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng
2024-10-282024-10-285162410.54804/yhthvb.5.2024.358Đánh giá tác dụng của dung dịch ABCS trên mô hình gây bỏng sâu thực nghiệm
https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/332
Mục tiêu: Khảo sát mô hình gây bỏng bằng sức nhiệt trên da chuột cống trắng và đánh giá hiệu quả điều trị bỏng da độ III (theo WHO) trên mô hình thực nghiệm bằng dung dịch ABCS. Đối tượng và phương pháp: Mô hình gây bỏng da trên chuột cống trắng Wistar được tiến hành bằng cách áp dụng cụ sắt hình trụ với thời gian tiếp xúc lần lượt là: 8 - 10 giây, 18 - 20 giây và 38 - 40 giây. Chuột bỏng độ III được chia thành 03 lô điều trị bằng ABCS, kem SSD 1% và NaCl 0,9%. Theo dõi, đánh giá, thu thập số liệu nghiên cứu về đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng toàn thân và tại chỗ. Kết quả: Gây bỏng với thời gian tiếp xúc 39 ± 1,5 giây tạo vết bỏng độ III là phù hợp để đánh giá hiệu quả điều trị bỏng sâu của ABCS. Điều trị bằng ABCS an toàn, toàn trạng chuột ổn định, xét nghiệm mô bệnh học gan, thận bình thường. Thời gian khỏi hoàn toàn là 28 ± 1 ngày. ABCS có hiệu quả chống viêm, kháng khuẩn tương đương với SSD 1%. Kết luận: Gây được mô hình bỏng da trên chuột cống trắng bằng cách áp bình trụ inox đựng nước sôi 1000C với thời gian tiếp xúc 39 ± 1,5 giây tạo bỏng da độ III (theo WHO). Trên thực nghiệm, ABCS có hiệu quả tốt trong điều trị bỏng độ III, kích thích liền vết thương nhanh, đồng thời có tác dụng kháng các chủng vi khuẩn thường gặp tại vết bỏng.Hồ Trường GiangLê Ánh NguyệtNguyễn Văn ĐiềuNguyễn Anh HoàngPhạm Ngọc SơnNguyễn Đức MinhVũ Thuý Diệp
Copyright (c) 2024 Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng
2024-10-282024-10-285253610.54804/yhthvb.5.2024.332Đánh giá tác dụng của ô xy cao áp trên vạt da thực nghiệm
https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/359
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả nuôi dưỡng của ô xy cao áp (HBOT) trên vạt da thực nghiệm trong phẫu thuật chuyển vạt da. Đối tượng và phương pháp: Tạo vạt da thực nghiệm (tỷ lệ 1:3) ở bên vùng lưng (2cm:6cm) cho 10 thỏ nghiên cứu. Điều trị kết hợp nuôi dưỡng vạt da nhóm nghiên cứu bằng ô xy cao áp so sánh với nhóm chứng không sử dụng ô xy cao áp. Kết quả: Sau 7 ngày nghiên cứu, nhóm vạt da nghiên cứu kết hợp nuôi dưỡng bằng ô xy cao áp (06) đều sống, vạt da hồng, tăng sinh các mạch máu tân tạo, các vạt da nhóm chứng (04) không kết hợp ô xy cao áp thì đầu xa của vạt đều hoại tử. Kết luận: Sử dụng ô xy cao áp (HBOT) làm tăng số lượng mạch máu tân tạo, giảm diện tích hoại tử trên vạt da thực nghiệm… có tác dụng hỗ trợ trong điều trị loét cùng cụt do tỳ đè bằng phẫu thuật chuyển vạt da tại chỗ.Bùi Thanh LợiNguyễn Tiến DũngNguyễn Văn ToànTrịnh Thị Thanh TúNguyễn Hồng Phong
Copyright (c) 2024 Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng
2024-10-282024-10-285374810.54804/yhthvb.5.2024.359Đánh giá hiệu quả của nẹp miệng trong dự phòng sẹo co kéo vùng miệng sau bỏng
https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/370
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của nẹp miệng cải tiến trong dự phòng sẹo co kéo vùng miệng sau bỏng. Tìm hiểu một số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả phục hồi chức năng vùng miệng sau bỏng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Gồm 18 bệnh nhân bỏng do tác nhân nhiệt là chủ yếu. Trong đó 6 bệnh nhân bỏng nông chiếm 33,3% và 12 bệnh nhân có tổn thương bỏng sâu tỷ lệ 66,7%, có nguy cơ sẹo co kéo gây hẹp vùng miệng. Bệnh nhân nghiên cứu được nẹp miệng cải tiến và kết hợp với một số kỹ thuật phục hồi chức năng tại Khoa Vật lý trị liệu - Phục hồi chức năng (Bệnh viện Bỏng Quốc gia Lê Hữu Trác) từ tháng 04/2023 đến tháng 04/2024. Nghiên cứu tiến cứu theo dõi dọc trước và sau ra viện 1 tháng, 3 tháng và kết quả xa sau 6 tháng về mức độ cải thiện tầm vận động miệng, mức độ đau và tình trạng sẹo. Kết quả nghiên cứu: Nẹp miệng cải tiến có hiệu quả ngăn ngừa di chứng co kéo, co hẹp miệng sau bỏng. Sau nghiên cứu 1 tuần bằng đặt nẹp miệng cải tiến phối hợp với một số kỹ thuật phục hồi chức năng thấy tầm vận động của miệng theo chiều dọc và chiều ngang của bệnh nhân nhóm bệnh nhân bỏng sâu độ IV đã tăng từ 24,22 6,57 mm và 40,00 4,14mm (trước điều trị) lên 35,27 9,64 mm và 47,44 4,87 mm (sau khi ra viện 6 tháng, tương đương 7,5 tháng can thiệp), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,001. Tầm vận động miệng của đa số bệnh nhân trở về bình thường (66,7%), còn 16,7% bệnh nhân co hẹp miệng mức độ vừa và 16,7% bệnh nhân co hẹp miệng mức độ nặng. Mức độ đau và tình trạng sẹo cũng được cải thiện. Điểm đau VAS giảm từ 4,11 0,83 (trước can thiệp) xuống 1,94 1,05 (sau khi ra viện 6 tháng), (p < 0,001). Độ sẹo theo Vancouver giảm từ 7,78 2,39 (trước can thiệp) xuống 5,78 2,79 (sau khi ra viện 6 tháng), (p < 0,01). Nhóm bệnh nhân bỏng nông, sau khi nghiên cứu 3 tháng tầm vận động miệng theo chiều dọc và chiều ngang đã trở lại bình thường; không còn cảm giác đau; nền sẹo trở lại tương đồng với nền da lành và duy trì kết quả tới thời điểm sau 6 tháng. Một số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả phục hồi chức năng vùng miệng sau bỏng như độ sâu của tổn thương bỏng, thời điểm tiến hành nghiên cứu và mức độ co hẹp ở vùng miệng trước nghiên cứu cũng được đề cập. Kết luận: Nẹp miệng cải tiến có có hiệu quả điều trị và dự phòng cho bệnh nhân bỏng vùng miệng cả nhóm bệnh nhân bỏng nông và nhóm bệnh nhân bỏng sâu. Phương pháp này có thể triển khai tại đơn vị phục hồi chức năng và tại gia đình sau khi bệnh nhân được hướng dẫn cách sử dụngPhạm Thị Mai PhươngTrương Thị ThuýĐỗ Thị Kim SơnTrịnh Thị Thanh TúDương Thị Thảo
Copyright (c) 2024
2024-10-282024-10-285496510.54804/yhthvb.5.2024.370Nghiên cứu hiệu quả giảm đau của hỗn hợp Nefopam - Fentanyl bệnh nhân tự điều khiển sau phẫu thuật nội soi khớp gối
https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/367
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả giảm đau của hỗn hợp Nefopam - Fentanyl bệnh nhân tự điều khiển đường tĩnh mạch sau phẫu thuật nội soi khớp gối. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả lâm sàng, tiến cứu trên 50 BN có chỉ định phẫu thuật nội soi khớp gối dưới gây tê tủy sống, được giảm đau bằng hỗn hợp tỷ lệ (Fentanyl: 12,5mcg/ml; Nefopam 1,5mg/ml); cài đặt PCA với các thông số: liều nền 1ml/giờ (25mcg/giờ), liều bolus 1ml (25mcg), thời gian khóa 10 phút, liều tối đa 15ml/4 giờ. Đánh giá tác dụng giảm đau sau mổ bằng thang điểm VAS lúc nghỉ và lúc vận động, mức độ tiêu thụ các thuốc giảm đau sau mổ, mức độ hài lòng của bệnh nhân sau mổ. Kết quả: Ở thời điểm 24 giờ sau phẫu thuật điểm đau VAS khi nghỉ và vận động của bệnh nhân là 1,18 ± 1,11 (0 - 3) và 2,52 ± 1,21 (0 - 6); liều lượng Fentanyl và Nefopam sử dụng trung bình là 27,78 ± 1,542ml (25ml - 30ml); số lần bolus thuốc giảm đau là 3,78 ± 1,54 lần (1 - 6 lần), không có trường hợp nào phải giải cứu đau, các bệnh nhân đều rất hài lòng (56%) và hài lòng (44,0%). Kết luận: Giảm đau sau phẫu thuật nội soi khớp gối bằng hỗn hợp dung dịch Nefopam và Fentanyl bệnh nhân (BN) tự điều khiển đường tĩnh mạch cho hiệu quả giảm đau tốt.Đinh Mạnh HàĐặng Thị HồngNguyễn Tiến ĐứcVõ Văn Hiển
Copyright (c) 2024 Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng
2024-10-282024-10-285667310.54804/yhthvb.5.2024.367Đánh giá tác động của tế bào gốc trung mô mô mỡ và thể tiết của chúng với mạch máu, cơ trên in vivo
https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/366
Mục tiêu: Đánh giá tính kích thích mạch máu, kích thích cơ của tế bào gốc trung mô mô mỡ và exosome từ tế bào gốc trung mô mô mỡ. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu thực nghiệm 12 thỏ New Zealand (1728 - 2190g) trưởng thành khỏe mạnh, 6 thỏ đánh giá tính kích thích mạch, cơ của tế bào gốc (MSC), 6 thỏ đánh giá kích thích mạch, cơ của thể tiết (TT); mức độ kích thích mạch máu, kích thích cơ dựa trên tổn thương vi thể tổ chức vùng tiêm. Kết quả: Kích thích mạch máu nhẹ đến trung bình ở cả 3 nhóm với điểm kích thích nhóm MSC (3), nhóm TT (2,5) và nhóm chứng (2,7); số lượng mạch máu trung bình nhóm MSC (5), nhóm TT (7,33), nhóm chứng (5,4); không có thâm nhiễm tế bào viêm trên mô cơ cả 3 nhóm nghiên cứu. Kết luận: Kết quả bước đầu chưa thấy tế bào gốc trung mô mô mỡ và thể tiết ngoại bào exoxome của chúng kích thích mạch máu, cơ trên động vật thực nghiệm.Nguyễn Hà HoạĐỗ Đức ThuầnĐỗ Xuân Hai
Copyright (c) 2024 Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng
2024-10-282024-10-285748110.54804/yhthvb.5.2024.366Động lực làm việc của điều dưỡng và các yếu tố liên quan tại Bệnh viện II Lâm Đồng
https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/336
Đặt vấn đề: Động lực làm việc của điều dưỡng là yếu tố quan trọng, có thể ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng chăm sóc và điều trị của người bệnh. Mục tiêu: Xác định động lực làm việc của điều dưỡng tại Bệnh viện II Lâm Đồng năm 2024. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang, tất cả điều dưỡng đang công tác tại Bệnh viện II Lâm Đồng đồng ý tham gia. Kết quả: Có 176 điều dưỡng tham gia khảo sát bằng bộ câu hỏi đã được thiết kế sẵn, kết quả điều dưỡng có động lực làm việc đạt 50,6% và điều dưỡng chưa có động lực làm việc đạt 49,4%. Kết luận: Tỷ lệ điều dưỡng có động lực làm việc là 50,6%, điểm trung bình đạt 3,52 điểm ± 0,34. Động lực làm việc của điều dưỡng với “yếu tố sự tận tâm” cao nhất 89,8%. Động lực làm việc của điều dưỡng với “yếu tố động lực chung”thấp nhất 10,8%, điểm trung bình đạt 2,86 điểm ± 0,53.Lê Thị Lệ ThuĐỗ Thị Hà
Copyright (c) 2024 Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng
2024-10-282024-10-285818610.54804/yhthvb.5.2024.336Chất lượng cuộc sống và các đặc điểm nhân khẩu học của người cao tuổi tại phường Hoà Quý, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng năm 2023
https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/341
Mục tiêu: Xác định một số đặc điểm nhân khẩu học và chất lượng cuộc sống của người cao tuổi tại phường Hòa Quý, quận Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cắt ngang thực hiện trên 253 người cao tuổi trong thời gian từ tháng 06/2022 đến tháng 06/2023. Tiến hành phỏng vấn trực tiếp người cao tuổi bằng bộ công cụ của tác giả Nguyễn Thanh Hương [4] gồm 65 câu hỏi. Kết quả: Người cao tuổi là nữ giới (56,5%), nhỏ hơn 80 tuổi (85,3%), không theo tôn giáo nào (83%), trình độ học vấn dưới trung học cơ sở (65,6%), là nông dân (75,5%), có tỷ lệ ly hôn/ độc thân cao (35,2%). Chất lượng cuộc sống của người cao tuổi ở mức trung bình (222,2/325 điểm), quy đổi theo thang điểm 10 là 6,8/10 điểm. Không có sự khác biệt về các mức chất lượng cuộc sống giữa người cao tuổi nam và nữ. Tỷ lệ nhóm người cao tuổi trên 80 tuổi có chất lượng cuộc sống ở mức thấp cao hơn nhóm 60 - 69 tuổi. Trong 6 khía cạnh liên quan đến chất lượng cuộc sống, tín ngưỡng có điểm số cao nhất (7,7/10 điểm), thứ hai là môi trường (7,6/10 điểm), thứ ba là tinh thần (7,4/10 điểm), thấp nhất là kinh tế (6,1/10 điểm). Kết luận: Người cao tuổi sống tại phường Hòa Quý, quận Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng có đặc điểm phong phú, chất lượng cuộc sống ở mức trung bình.Nguyễn Tiến DũngHuỳnh Bá ThànhNguyễn Khánh An
Copyright (c) 2024 Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng
2024-10-282024-10-285879710.54804/yhthvb.5.2024.341Thực trạng, thái độ, rào cản và giải pháp nâng cao động lực nghiên cứu khoa học của sinh viên điều dưỡng Trường đại học Yersin Đà Lạt năm 2023
https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/360
Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm mô tả thực trạng, thái độ, rào cản và một số giải pháp nâng cao động lực nghiên cứu khoa học của sinh viên điều dưỡng Trường Đại học Yersin Đà Lạt. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt trang trên 135 sinh viên (SV) ngành Điều dưỡng Trường Đại học Yersin Đà Lạt. Kết quả: Tỷ lệ sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học (NCKH) chiếm 25.2%. Hầu hết sinh viên có thái độ tích cực về hoạt động nghiên cứu khoa học từ 66,7% đến 83,7% với các nội dung về sự cần thiết của nghiên cứu khoa học, phát triển kỹ năng mềm, kinh nghiệm và cơ hội việc làm, củng cố kiến thức chuyên môn. Ngoài ra, một số rào cản nghiên cứu khoa học chiếm trọng số cao như kỹ năng tin học, ngoại ngữ chưa tốt 63.7%, thiếu kiến thức, kỹ năng làm nghiên cứu khoa học 64,5%. Bên cạnh đó, một số giải pháp được sự đồng tình cao để thúc đẩy nghiên cứu khoa học trong sinh viên như cộng điểm rèn luyện 74.8%; trao thưởng: học bổng, giấy khen… 98 (72,6%); ban hành quy chế khuyến khích nghiên cứu khoa học trong sinh viên 65,9%; đổi mới cách thức, quy trình thực hiện đề tài tinh gọn, đơn giản hóa nhưng vẫn đảm bảo tính pháp lý 68,2%; phát triển đội ngũ giáo viên hướng dẫn nghiên cứu khoa học 66,6%. Kết luận: Nhà trường nên có các biện pháp thúc đẩy việc nghiên cứu khoa học trong sinh viênHoàng Trung Tiến
Copyright (c) 2024 Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng
2024-10-282024-10-2859810810.54804/yhthvb.5.2024.360Điều trị thành công vết bỏng với mô hạt lâu lành
https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/346
Bỏng là mối lo ngại lớn về sức khỏe trên toàn cầu, chiếm tỷ lệ đáng kể trong các thương tích ở trẻ em. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, hàng năm có khoảng 180.000 trường hợp tử vong do bỏng, tập trung chủ yếu ở các nước có thu nhập thấp và trung bình [3]. Bỏng nặng không chỉ gây ra những ảnh hưởng lớn về mặt sức khỏe thể chất mà còn có thể ảnh hưởng lâu dài đến sức khỏe tâm thần, đặc biệt trên trẻ em, đối tượng đang trong giai đoạn tăng trưởng và phát triển. Điều trị nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất giúp cho vết thương liền thuận lợi, tránh hình thành "sẹo bệnh lý" như sẹo phì đại, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống người bệnh [5]. Phẫu thuật căt hoại tử ghép da che phủ sớm sẽ giảm nguy cơ nhiễm khuẩn, tăng khả năng cứu sống, giảm nguy cơ hình thành vết thương mạn tính. Tuy nhiên vẫn còn một số đơn vị điều trị bỏng áp dụng kỹ thuật này chưa hiệu quả. Bệnh viện Bỏng Quốc gia Lê Hữu Trác đã thu dung, điều trị nhiều bệnh nhân với mô hạt mạn tính kèm theo những rối loạn tâm lý kéo dài. Chúng tôi giới thiệu bệnh nhân nữ, 6 tuổi với chẩn đoán 22% mô hạt mặt, cổ, ngực, bụng, lưng, hai tay, hai chân do bỏng lửa ngày thứ 100 đã được phẫu thuật cắt hoại tử ghép da nhiều lần tại tuyến trước nhưng thất bại.Nguyễn Thị HươngHồ Thị Vân AnhNguyễn Thị Thu Minh
Copyright (c) 2024 Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng
2024-10-282024-10-28510911310.54804/yhthvb.5.2024.346Sử dụng mật ong hoa tràm chiếu xạ trong điều trị loét tì đè
https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/361
MMật ong có khả năng chữa lành các vết thương nhờ vào sự kết hợp của nhiều tính chất đặc biệt khác nhau như tính siêu thẩm thấu, pH thấp, tính chất kháng khuẩn peroxide và kháng khuẩn không peroxide cũng như có các chất chống oxi hóa. Mật ong có thể được sử dụng băng vết thương để kích thích làm mau lành vết thương. Mật ong đã dược sử dụng để điều trị các vết thương cấp tính và mạn tính nhiều nơi trên thế giới và Việt Nam rất có hiệu quả. Tác giả trình bày trong báo cáo một số kinh nghiệm dùng mật ong hoa tràm được chiếu xạ (MOHTCX) để chăm sóc một số các trường hợp loét tì đè.Nguyễn Hữu PhùngTrần Văn Phế
Copyright (c) 2024 Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng
2024-10-282024-10-28511412310.54804/yhthvb.5.2024.361Báo cáo một trường hợp ghép da đồng loại từ người hiến tạng chết não tại Bệnh viện Chợ Rẫy
https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/311
Mục tiêu: Tổn thương phỏng lửa diện rộng, diện độ sâu lớn do xăng, gas tại Khoa Bỏng và Tạo hình (Bệnh viện Chợ Rẫy) hiện nay còn rất phổ biến. Để cứu sống người bệnh, cần cắt lọc hoại tử, che phủ sớm vết thương, nhằm giảm thiểu tối đa nhiễm trùng, mất nước, điện giải, protein qua vết thương, giảm đau, đẩy nhanh quá trình liền thương, cải thiện tỉ lệ sống còn cho người bệnh. Ghép da đồng loại từ người thân đã được áp dụng tại Khoa từ nhiều năm trước để điều trị cho người bệnh. Chúng tôi xin trình bày một trường hợp ghép da đồng loại từ người cho chết não đầu tiên tại Khoa Bỏng - Tạo hình. Phương pháp: Người bệnh bỏng sau khi được hồi sức tích cực được cắt lọc sớm vết thương hai lần, ghép da đồng loại từ người cho chết não 1 lần, sau đó được ghép da tự thân hai lần. Kết quả: Da ghép đồng loại bám dính tốt, sau 10 ngày có hiện tượng bong dần do thải ghép, để lộ nền mô hạt đẹp. Người bệnh được ghép da tự thân hai lần tiếp theo, da ghép bám sống tốt, vết thương liền hoàn toàn, được cho xuất viện. Kết luận: Ghép da đồng loại đã được sử dụng trong thực hành lâm sàng hơn một thế kỉ qua, là vật liệu thay thế da sinh lí nhất, giúp tạo hàng rào chống nhiễm trùng, mất nước, điện giải, protein qua vết thương, giảm đau, tốt cho lành thương, cải thiện tỉ lệ sống còn cho người bệnh. Tuy nhiên, hiện nay tỉ lệ người hiến tạng, hiến da ở nước ta nói chung còn thấp, Bệnh viện Chợ Rẫy cũng chưa có ngân hàng mô ghép để bảo quản da đồng loại.Ngô Đức Hiệp
Copyright (c) 2024 Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng
2024-10-282024-10-28512412810.54804/yhthvb.5.2024.311Kiểm soát đau cấp tính ở bệnh nhân bỏng người lớn (Tổng quan)
https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/365
Đau xuất hiện sau bỏng là do sự kích thích của các thụ cảm thể của da đáp ứng lại với tác nhân nhiệt, cơ học và hóa học. Đau do tổn thương bỏng rất khó kiểm soát. Xu thế hiện nay sử dụng phối hợp các loại thuốc giảm đau khác nhau và sử dụng bằng các đường khác nhau (giảm đau đa mô thức) trong và sau các phẫu thuật, thủ thuật, chấn thương nhằm kiểm soát tốt cơn đau, giảm tác dụng không mong muốn của các thuốc.Ngô Tuấn HưngTrần Đình HùngTrần Thanh Tuấn
Copyright (c) 2024 Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng
2024-10-282024-10-28512913610.54804/yhthvb.5.2024.365