Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb <p>Lịch sử phát tri&ecirc;̉n<br />Ngày 03 tháng 01 năm 1992, Tờ Th&ocirc;ng tin Bỏng ra s&ocirc;́ đ&acirc;̀u ti&ecirc;n<br />Ng&agrave;y 20 th&aacute;ng 3 năm 2001, Bộ Văn h&oacute;a &ndash; Th&ocirc;ng tin (nay l&agrave; Bộ Th&ocirc;ng tin v&agrave; Truyền th&ocirc;ng) ra Quyết định số 78/GP-BVHTT cấp giấy ph&eacute;p hoạt động b&aacute;o ch&iacute; cho Tạp ch&iacute; Y học Thảm họa v&agrave; Bỏng thuộc Viện Bỏng Quốc gia L&ecirc; Hữu Tr&aacute;c. Kể từ khi ra mắt bạn đọc số đầu ti&ecirc;n cho tới nay, Tạp ch&iacute; Y học thảm hoạ v&agrave; Bỏng đ&atilde; được cấp ph&eacute;p sửa đổi n&acirc;ng kỳ xuất bản l&ecirc;n 6 số/năm (Giấy ph&eacute;p hoạt động b&aacute;o ch&iacute; số 1311/GP-BTTTT, ng&agrave;y 23/7/2012;) v&agrave; c&aacute;c số Tạp ch&iacute; chuy&ecirc;n đề phục c&aacute;c Hội nghị Khoa học.</p> <p>Ngày 18 tháng 12 năm 2009, Tạp ch&iacute; Y học Thảm họa v&agrave; Bỏng được Bộ khoa học và c&ocirc;ng ngh&ecirc;̣ qu&ocirc;́c gia c&acirc;́p mã s&ocirc;́ chu&acirc;̉n qu&ocirc;́c t&ecirc;́ p-ISSN 1859 - 3461 cho tạp ch&iacute; loại h&igrave;nh in.</p> <p>Ngày 09 tháng 12 năm 2021: Tạp ch&iacute; Y học Thảm hoạ v&agrave; Bỏng được cấp chỉ số DOI m&atilde; số 10.54804</p> <p>Ng&agrave;y 06 th&aacute;ng 7 năm 2023: Bộ Th&ocirc;ng tin &amp; Truyền th&ocirc;ng cấp lại giấy ph&eacute;p hoạt động Tạp ch&iacute; Y học thảm hoạ v&agrave; Bỏng (loại h&igrave;nh in) v&agrave; thực hiện th&ecirc;m loại h&igrave;nh tạp ch&iacute; điện tử.</p> <p>Ngày 28 tháng 11 năm 2023, Tạp ch&iacute; Y học Thảm họa v&agrave; Bỏng loại h&igrave;nh điện tử được Cục Khoa học và C&ocirc;ng ngh&ecirc;̣ Qu&ocirc;́c gia c&acirc;́p mã s&ocirc;́ chu&acirc;̉n qu&ocirc;́c t&ecirc;́ e-ISSN 3030 - 4008.</p> <p>T&ocirc;n chỉ, mục đ&iacute;ch hoạt động b&aacute;o ch&iacute;:&nbsp;<br />+ Giới thiệu c&aacute;c c&ocirc;ng tr&igrave;nh nghi&ecirc;n cứu của c&aacute;c nh&agrave; khoa học trong lĩnh vực y học thảm họa v&agrave; bỏng, liền vết thương, phẫu thuật tạo h&igrave;nh, v&agrave; c&aacute;c chuy&ecirc;n ng&agrave;nh y học kh&aacute;c.<br />+ Th&ocirc;ng tin c&aacute;c vấn đề c&oacute; li&ecirc;n quan về chuy&ecirc;n m&ocirc;n ở trong nước v&agrave; quốc tế.<br />+ Cung cấp tư liệu cho c&aacute;n bộ y tế tr&ecirc;n to&agrave;n quốc v&agrave; bạn đọc quan t&acirc;m<br />+ Đối tượng phục vụ: C&aacute;c nh&agrave; khoa học, c&aacute;c nh&agrave; nghi&ecirc;n cứu, c&aacute;n bộ quản l&yacute;, giảng vi&ecirc;n, vi&ecirc;n chức, nghi&ecirc;n cứu sinh, học vi&ecirc;n cao học, sinh vi&ecirc;n v&agrave; bạn đọc quan t&acirc;m. <br />+ Ph&aacute;t h&agrave;nh tr&ecirc;n phạm vi to&agrave;n quốc</p> <p>Trong thời gian hoạt động, Tạp ch&iacute; Y học Thảm họa v&agrave; Bỏng đ&atilde; thực hiện đ&uacute;ng t&ocirc;n chỉ, mục đ&iacute;ch, chất lượng ng&agrave;y c&agrave;ng n&acirc;ng cao cả về nội dung v&agrave; h&igrave;nh thức g&oacute;p phần đẩy mạnh c&ocirc;ng t&aacute;c ph&ograve;ng, điều trị v&agrave; nghi&ecirc;n cứu khoa học về bỏng cho cộng đồng v&agrave; c&aacute;n bộ y tế trong to&agrave;n quốc, đặc biệt g&oacute;p phần kh&ocirc;ng nhỏ trong c&ocirc;ng t&aacute;c ph&ograve;ng v&agrave; chống thảm họa thi&ecirc;n nhi&ecirc;n tại Việt Nam.&nbsp;</p> <p>Nhằm đáp ứng nhu c&acirc;̀u phát tri&ecirc;̉n ngày càng phát tri&ecirc;̉n của khoa học, Tạp ch&iacute; đã x&acirc;y dựng ra website Tạp chí Y học Thảm họa và Bỏng phi&ecirc;n bản online phục vụ c&aacute;c nh&agrave; nghi&ecirc;n cứu v&agrave; độc giả thuận tiện hơn.</p> <p>Độc giả c&oacute; nhu cầu tham khảo chi tiết th&ocirc;ng tin b&agrave;i nghi&ecirc;n cứu khoa học hoặc gửi b&agrave;i đăng xin vui lòng li&ecirc;n h&ecirc;̣ với tòa soạn Tạp chí<br />Tạp chí Y học Thảm họa và Bỏng.<br />Tầng 3 to&agrave; nh&agrave; Đ2 - Bệnh vi&ecirc;̣n Bỏng Qu&ocirc;́c gia L&ecirc; Hữu Tr&aacute;c<br />S&ocirc;́ 263 Phùng Hưng - Phúc La - Hà Đ&ocirc;ng - Hà N&ocirc;̣i<br />ĐT: 069 566626 * fax: 84.0243 6883180<br />Email: tcbongvn@yahoo.com; thư k&yacute; to&agrave; soạn: Trần Xu&acirc;n Việt - 0989536261</p> vi-VN Tue, 28 Oct 2025 00:00:00 +0000 OJS 3.2.1.1 http://blogs.law.harvard.edu/tech/rss 60 Đánh giá thực trạng của xe cứu thương tại các bệnh viện Quân y https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/520 Mục tiêu: Đánh giá thực trạng của xe cứu thương tại các Bệnh viện Quân y. Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành trên 30 xe cứu thương thuộc các Bệnh viện Quân y. Dữ liệu được thu thập thông qua quan sát trực tiếp, phỏng vấn, đối chiếu hồ sơ kiểm định kỹ thuật, và phân tích theo bộ tiêu chí của Thông tư 27/2017/TT-BYT và Quyết định 3385/QĐ-BYT. Kết quả: Có 83,3% xe cứu thương đang trong tình trạng hoạt động tốt, song chưa có tiêu chí nào đạt 100% theo quy định. Một số hạng mục có tỷ lệ đạt thấp như búa thoát hiểm (50%), tấm lót sàn chống trượt (60%) và ghế ngồi cho nhân viên y tế (66,7%). Cơ số thuốc và trang thiết bị y tế cơ bản phù hợp với quy định nhưng chưa được thống nhất giữa các đơn vị. Kết luận và khuyến nghị: Hệ thống xe cứu thương của các Bệnh viên Quân y cơ bản đáp ứng yêu cầu phục vụ công tác cấp cứu và vận chuyển bệnh nhân. Tuy nhiên, cần chuẩn hóa trang thiết bị, tăng cường kiểm định định kỳ và huấn luyện kíp cấp cứu ngoại viện để nâng cao hiệu quả, an toàn và tính sẵn sàng trong ứng phó thảm hoạ. Nguyễn Tiến Dũng, Nguyễn Như Lâm, Trần Quang Phú, Nguyễn Thái Ngọc Minh, Lương Trung Hiếu Copyright (c) 2025 Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/520 Tue, 28 Oct 2025 00:00:00 +0000 Đặc điểm rối loạn chức năng các cơ quan theo thang điểm SOFA trên bệnh nhân bỏng nặng https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/489 Mục tiêu: Đánh giá đặc điểm rối loạn các cơ quan theo thang điểm SOFA trên bệnh nhân bỏng nặng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả trên 119 bệnh nhân bỏng nặng, tuổi từ 18, nhập Khoa Hồi sức Cấp cứu (Bệnh viện Bỏng Quốc gia Lê Hữu Trác) điều trị từ ngày 01/06/2024 đến ngày 30/06/2025. Vào viện trong 48 giờ sau bỏng. Không có bệnh và chấn thương kết hợp. Thu thập số liệu tại 3 thời điểm: Lúc vào viện (N0), sau 3 ngày bị bỏng (N3) và sau 7 ngày bị bỏng (N7). Kết quả: Tỷ lệ rối loạn các cơ quan theo thang điểm SOFA cao ở các thời điểm: lúc vào viện (77,31%), sau 3 ngày bị bỏng (87,39%) và sau 7 ngày bị bỏng (68,07%). Lúc vào viện và ngày thứ 7 sau bỏng cơ quan hô hấp bị rối loạn nhiều nhất (lần lượt là 39,50% và 47,06%). Ngày thứ 3 sau bỏng, cơ quan huyết học bị rối loạn nhiều nhất (56,30%). Điểm SOFA lúc vào viện và ngày thứ 7 sau bỏng có mối tương quan thuận, mức độ khá chặt chẽ với diện tích bỏng (p < 0,001). Có mối tương quan thuận, mức độ khá chặt chẽ giữa diện tích bỏng sâu, bỏng hô hấp với điểm SOFA lúc vào viện, ngày thứ 3 và ngày thứ 7 sau bỏng (p < 0,001). Kết luận: Tỷ lệ rối loạn các cơ quan theo thang điểm SOFA trên bệnh nhân bỏng nặng ở mức cao. Điểm SOFA lúc vào viện và ngày thứ 7 sau bỏng tương quan thuận, mức độ khá chặt chẽ với mức độ bỏng. Trần Thị Dịu Hiền, Ngô Tuấn Hưng, Trần Lê Nguyệt Minh, Trần Đình Hùng Copyright (c) 2025 Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/489 Tue, 28 Oct 2025 00:00:00 +0000 Nghiên cứu một số đặc điểm kháng thuốc của vi khuẩn và vi nấm phân lập trên bệnh nhân bỏng nặng điều trị tại Khoa Hồi sức cấp cứu, Bệnh viện Bỏng Quốc gia Lê Hữu Trác https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/473 Mục tiêu: Mô tả đặc điểm kháng thuốc của vi khuẩn và vi nấm phân lập từ các bệnh phẩm lâm sàng của bệnh nhân bỏng nặng điều trị tại Khoa Hồi sức cấp cứu, Bệnh viện Bỏng Quốc gia Lê Hữu Trác năm 2024. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2024. Tất cả các chủng vi sinh vật phân lập từ bệnh phẩm máu, đờm, nước tiểu và mủ của bệnh nhân bỏng nặng điều trị tại Khoa Hồi sức cấp cứu được đưa vào phân tích. Vi sinh vật được định danh và làm kháng sinh đồ bằng hệ thống Vitek 2 Compact; kết quả được giải thích theo tiêu chuẩn CLSI M100 (2023). Dữ liệu được xử lý và phân tích bằng phần mềm STATA 17.0. Kết quả: Tổng cộng 131 mẫu bệnh phẩm mọc vi khuẩn và nấm, bao gồm: Vi khuẩn Gram âm (68,7%), vi khuẩn Gram dương (17,6%) và vi nấm (13,7%). • Acinetobacter baumannii (26,7%) và Klebsiella pneumoniae (15,3%) là hai tác nhân Gram âm chủ yếu; trong đó, A. baumannii kháng tuyệt đối với meropenem (100%) và ceftazidime (100%), còn K. pneumoniae kháng meropenem 92,3% và ceftazidime 84,6%. • Pseudomonas aeruginosa (10,7%) kháng ceftazidime 85,7% và ciprofloxacin 71,4%, tuy nhiên còn nhạy cảm tương đối với colistin. • Staphylococcus aureus là vi khuẩn Gram dương phổ biến nhất với tỷ lệ kháng methicillin (MRSA) là 73,91%, phần lớn vẫn nhạy cảm với vancomycin và linezolid. • Candida tropicalis chiếm 12,2% và có tỷ lệ kháng fluconazole lên tới 51,9%. Kết luận: Nghiên cứu cho thấy vi khuẩn và vi nấm phân lập từ bệnh nhân bỏng nặng có tỷ lệ kháng thuốc cao, đặc biệt là các chủng Gram âm và MRSA. Tình trạng này đặt ra yêu cầu cấp thiết phải giám sát kháng sinh đồ định kỳ, điều chỉnh phác đồ điều trị hợp lý, và tăng cường kiểm soát nhiễm khuẩn tại các khoa hồi sức bỏng. Trần Đình Hùng, Hoàng Văn Vụ Copyright (c) 2025 Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/473 Tue, 28 Oct 2025 00:00:00 +0000 Mối liên quan giữa tình trạng dinh dưỡng, tổn thương bỏng và thời gian nằm viện ở người bệnh bỏng https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/515 Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm xác định mối liên quan giữa tình trạng dinh dưỡng, diện tích bỏng và thời gian nằm viện (LOS) ở người bệnh bỏng điều trị tại Bệnh viện Bỏng Quốc gia Lê Hữu Trác, đồng thời tìm ra các yếu tố tiên lượng độc lập ảnh hưởng đến LOS. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang tiến cứu được thực hiện trên 57 người bệnh bỏng nhập viện trong dịp tuần lễ Nutrition Day năm 2021. Thông tin nhân khẩu học, đặc điểm bỏng và tình trạng dinh dưỡng được thu thập. Các công cụ sàng lọc dinh dưỡng bao gồm Malnutrition Screening Tool (MST) và Nutritional Risk Screening 2002 (NRS-2002). Phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS 26.0; sử dụng thống kê mô tả, tương quan Pearson và hồi quy tuyến tính đa biến. Kết quả: Tuổi trung bình của người bệnh là 40,35 ± 17,74 năm; nam giới chiếm 73,7%. Nguyên nhân bỏng phổ biến nhất là bỏng điện và bỏng nhiệt khô (mỗi loại 40,4%). TBSA trung bình 15,26 ± 14,50% cơ thể; diện tích bỏng sâu trung bình 11,25%. Theo MST, 38,6% người bệnh có nguy cơ suy dinh dưỡng; theo NRS-2002, 78,9% có nguy cơ dinh dưỡng. Thời gian nằm viện trung bình là 35,67 ± 20,50 ngày. LOS có tương quan thuận, có ý nghĩa với TBSA (r = 0,575; p < 0,001), diện tích bỏng sâu (r = 0,543; p < 0,001), MST (r = 0,541; p < 0,001) và NRS-2002 (r = 0,318; p = 0,016). Phân tích hồi quy đa biến cho thấy TBSA (B = 0,668; p < 0,001) và MST (B = 7,158; p < 0,001) là các yếu tố tiên lượng độc lập đối với LOS. Kết luận: Diện tích bỏng và nguy cơ dinh dưỡng theo MST là những yếu tố tiên lượng quan trọng đối với thời gian nằm viện của người bệnh bỏng. Việc áp dụng sàng lọc dinh dưỡng thường quy ngay từ khi nhập viện, kết hợp với đánh giá chính xác diện tích bỏng, có ý nghĩa then chốt trong tiên lượng và tối ưu hóa chiến lược điều trị. Phạm Đức Minh, Trần Thị Loan Copyright (c) 2025 Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/515 Tue, 28 Oct 2025 00:00:00 +0000 Đánh giá tác dụng điều trị tại chỗ của gel nano Berberin trên vết bỏng thực nghiệm https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/521 Mục tiêu: Đánh giá tác dụng điều trị tại chỗ của gel nano Berberin trên vết bỏng thực nghiệm. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu trên 45 thỏ (90 vết bỏng độ III nông) chia ngẫu nhiên thành 3 nhóm: (1) NaCl 0,9%; (2) bạc Sulfadiazin 1% (SSD); (3) Gel nano Berberin. Vết bỏng được theo dõi 28 ngày. Các chỉ tiêu gồm: diễn biến toàn thân, hình thái vết bỏng, diện tích và tốc độ tái biểu mô, thời gian liền thương, tỷ lệ và số lượng vi khuẩn. Kết quả: Gel nano berberin giúp thu hẹp diện tích vết bỏng nhanh hơn hai nhóm đối chứng; khác biệt có ý nghĩa thống kê xuất hiện từ tuần 3 (T3: 1,41 ± 1,66 cm² so với 2,98 ± 1,06 cm² ở SSD; p < 0,001). Thời gian liền thương trung bình rút ngắn rõ rệt ở nhóm Gel nano Berberin (22,40 ± 3,56 ngày) so với SSD (27,23 ± 3,70 ngày) và NaCl (27,63 ± 3,92 ngày), p < 0,001. Về nhiễm khuẩn, tỷ lệ cấy dương tính ngày 14 ở nhóm nano thấp hơn đáng kể (26,67%) so với SSD (86,67%) và NaCl (60,0%) (p < 0,05). Kết luận: Trên mô hình bỏng thực nghiệm, Gel nano berberin cho thấy hiệu quả điều trị tại chỗ rõ rệt: rút ngắn thời gian liền thương, tăng tái biểu mô và giảm nhiễm khuẩn so với SSD và NaCl, với khác biệt có ý nghĩa từ tuần thứ 3. Lê Quốc Chiểu, Nguyễn Ngọc Tuấn, Chu Anh Tuấn Copyright (c) 2025 Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/521 Tue, 28 Oct 2025 00:00:00 +0000 Đánh giá tác dụng điều trị tại chỗ vết thương bỏng sâu của dung dịch Mafenide acetate 5% https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/459 Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả và tính an toàn của dung dịch Mafenide acetate 5% trong điều trị tại chỗ vết thương bỏng sâu, so sánh với Sulfadiazin bạc (SSD) 1%. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, can thiệp, có đối chứng, so sánh trước - sau, thực hiện trên 40 bệnh nhân bỏng sâu nhập viện tại Khoa Điều trị Bỏng người lớn (Bệnh viện Bỏng Quốc gia Lê Hữu Trác) (tháng 6/2024 - 6/2025). Bệnh nhân được chia thành 2 nhóm: Nhóm nghiên cứu (n = 20) đắp dung dịch Mafenide 5%, nhóm chứng (n = 20) đắp SSD 1%. Sau 5 ngày điều trị, tất cả được cắt bỏ hoại tử toàn lớp và ghép da tự thân mắt lưới (tỷ lệ 1:1,5). Sau mổ, nhóm nghiên cứu tiếp tục dùng Mafenide 5% thêm 5 ngày; cả hai nhóm sau đó thay băng bằng dung dịch Berberin 0,1% cho đến khi mảnh ghép bám sống. Các chỉ số đánh giá gồm: Diễn biến lâm sàng tại chỗ, kết quả ghép da, thời gian biểu mô hóa hoàn toàn vết thương, vi sinh (tỷ lệ và mật độ cấy vi khuẩn). Kết quả: Hai nhóm bệnh nhân tương đồng về tuổi, giới, diện tích bỏng sâu nghiên cứu và tác nhân bỏng. Nhóm Mafenide 5% làm giảm viêm nề và mức độ dịch tiết giảm nhanh hơn, số lượng vi khuẩn giảm có ý nghĩa sau đắp thuốc so với nhóm Sulfadiazin bạc 1% (p = 0,03). Vi khuẩn chủ yếu phân lập gồm Staphylococcus aureus (40,04%) và P.seudomonas aeruginosa (33,33%), trong đó nhóm Sulfadiazin bạc 1% có xu hướng phân lập P. aeruginosa nhiều hơn. Tỷ lệ mảnh ghép sống tốt ở cả hai nhóm tương đương (70% và 65%) ở ngày thứ 5 sau phẫu thuật và thời gian biểu mô hóa hoàn toàn vết thương. Kết luận: Dung dịch Mafenide acetat 5% là một lựa chọn điều trị hiệu quả trong xử trí tại chỗ các vết thương bỏng sâu, giúp cải thiện kiểm soát nhiễm khuẩn so với Sulfadiazin bạc 1% và an toàn trong ghép da tự thân mắt lưới cũng như quá trình biểu mô hóa. Tạ Huy Hoàng, Mai Xuân Thảo, Lâm Thị Đan Chi Copyright (c) 2025 Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/459 Tue, 28 Oct 2025 00:00:00 +0000 Khảo sát kiến thức của người bệnh về vai trò của phục hồi chức năng trong điều trị bỏng tại Bệnh viện Bỏng Quốc gia Lê Hữu Trác https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/492 Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của hoạt động tư vấn phục hồi chức năng đối với người bệnh sau bỏng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện thiết kế mô tả cắt ngang, có can thiệp trước sau trên 154 bệnh nhân bỏng điều trị nội trú tại Bệnh viện Bỏng Quốc gia Lê Hữu trác từ tháng 04/2024 - 06/2025. Tài liệu can thiệp được xây dựng từ nghiên cứu quốc tế đã công bố, có bình duyệt quốc tế [1]: Gete BC, Mitiku TD, Wudineh BA, Endeshaw AS (2022). Knowledge, Attitude and Practice towards Burn First Aid and its Associated Factors among Caregivers attending burn units in Addis Ababa, Ethiopia. Annals of Medicine and Surgery, 81, 104402. Dữ liệu được phân tích bằng phần mềm SPSS 26.0. Kết quả: Sau can thiệp, khả năng kiến thức của người bệnh về phục hồi chức năng sau bỏng được cải thiện đáng kể. Cụ thể, điểm trung bình kiến thức tăng lên 7,6 ± 1,2 điểm sau can thiệp so với 3,9 ± 1,4 điểm ở trước can thiệp (p < 0,001). Trước can thiệp, tỷ lệ trả lời đúng dao động từ 33,3 - 46,7%, cho thấy mức độ hiểu biết còn hạn chế ở hầu hết người bệnh. Sau can thiệp, tỷ lệ này tăng mạnh, đạt 70,3 - 82,2%, phản ánh hiệu quả rõ rệt của chương trình giáo dục sức khỏe. Kết luận: Trước can thiệp tư vấn, kiến thức của người bệnh bỏng về phục hồi chức năng còn hạn chế nhưng đã được cải thiện đáng kể sau can thiệp. Dương Thị Thảo, Bùi Thanh Lợi, Nguyễn Thị Thu, Trịnh Thị Thanh Tú, Nguyễn Thị Thu Hoài Copyright (c) 2025 Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/492 Tue, 28 Oct 2025 00:00:00 +0000 Kết quả phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới mọc lệch ngầm kết hợp với laser diode công suất thấp https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/478 Mục tiêu: Đánh giá kết quả tổng thể sau phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới mọc lệch ngầm khi kết hợp với laser diode công suất thấp (low-level diode laser therapy - LLLT). Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên mô tả, can thiệp lâm sàng có đối chứng trên 90 bệnh nhân (BN) với 45 bệnh nhân nhóm có chiếu laser và 45 bênh nhân nhóm không chiếu laser, phân tích phương pháp phẫu thuật, mức độ và thời gian đau cùng các biến chứng trong phẫu thuật và kết quả phẫu thuật tổng thể sau 1 tuần được thu thập. Kết quả: Mức độ đau trung bình ở nhóm có chiếu laser thấp hơn đáng kể (p < 0,001) so với nhóm không chiếu laser tại tất cả các thời điểm khảo sát (2 giờ, 4 giờ, 6 giờ, ngày thứ 1, ngày thứ 2, ngày thứ 7), với việc hết đau hoàn toàn ở nhóm có laser vào ngày thứ 2. Phân loại mức độ đau cũng cho thấy sự cải thiện rõ rệt ở nhóm có laser (p < 0,001), với 66,7% BN không đau sau 1 ngày so với 0% ở nhóm không laser. Kết quả phẫu thuật sau 1 tuần ở nhóm có chiếu laser đạt 100% kết quả tốt, cao hơn đáng kể so với nhóm không chiếu laser (68,9% tốt, p < 0,001). Kết luận: Sử dụng laser diode công suất thấp sau phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới mọc lệch ngầm mang lại hiệu quả vượt trội trong việc kiểm soát đau và cải thiện kết quả phẫu thuật. Lê Mạnh Cường, Trần Thị Kim Liên, Vũ Hữu Trung, Nguyễn Danh Long, Lê Thục Trinh Copyright (c) 2025 Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/478 Tue, 28 Oct 2025 00:00:00 +0000 Hiệu quả của hỗn dịch tế bào tự thân không nuôi cấy trong điều trị vùng cho da ghép mảnh mỏng https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/490 Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả liền thương và cải thiện chất lượng sẹo của hỗn dịch tế bào tự thân không nuôi cấy trong điều trị vị trí lấy da ghép mảnh mỏng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng tiến cứu, ngẫu nhiên, có đối chứng trong cùng một bệnh nhân trên 30 bệnh nhân bỏng (18 - 60 tuổi). Tại vị trí lấy da ở đùi, một nửa diện tích được điều trị ngẫu nhiên bằng hỗn dịch tế bào tự thân không nuôi cấy (Vùng A), nửa còn lại được điều trị bằng gạc vaselin (Vùng B). Chỉ số chính là thời gian liền thương. Các chỉ số phụ bao gồm mức độ đau, chất lượng sẹo sau 6 tháng (thang điểm VSS, POSAS) và tỷ lệ biến chứng. Kết quả: Thời gian liền thương trung bình ở vùng A là 10,8 ± 1,4 ngày, ngắn hơn đáng kể so với vùng B là 14,1 ± 2,7 ngày (p < 0,001). Mức độ đau ở vùng A thấp hơn có ý nghĩa thống kê trong 2 tuần đầu. Sau 3 và 6 tháng, tỷ lệ da vùng ghép có sắc tố bình thường ở nhóm Recell cao hơn rõ rệt so với nhóm chứng (66,7% vs 26,7% tại 3 tháng; 83,3% vs 40% tại 6 tháng; p < 0,001). Tỷ lệ nhiễm trùng ở vùng A thấp hơn vùng B (3,3% so với 16,7%), tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p = 0,098). Kết luận: Ứng dụng hỗn dịch tế bào tự thân không nuôi cấy giúp rút ngắn đáng kể thời gian liền thương, giảm đau sau phẫu thuật và cải thiện chất lượng sẹo sau 6 tháng. Đây là một phương pháp an toàn và hiệu quả trong điều trị vị trí lấy da ghép mảnh mỏng ở bệnh nhân bỏng. Nguyễn Thái Ngọc Minh, Hoàng Văn Vụ Copyright (c) 2025 Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/490 Tue, 28 Oct 2025 00:00:00 +0000 Cắt cụt chi và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân do loét bàn chân đái tháo đường nhập viện tại Bệnh viện Hữu nghị Đa khoa Nghệ An https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/495 Mục tiêu: Xác định các yếu tố nguy cơ cắt cụt chi trên bệnh nhân (BN) loét bàn chân do tiểu đường tại Bệnh viện Hữu Nghị Đa khoa Nghệ An. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu 115 bệnh nhân loét bàn chân do đái tháo đường (ĐTĐ) người lớn nhập viện tại Bệnh viện Hữu Nghị Đa khoa Nghệ An từ ngày 01/01/2024 đến ngày 30/6/2025. Một mẫu dịch mủ được lấy từ vết loét trước khi làm sạch vết loét để nuôi cấy vi khuẩn. Kết quả chính là tỷ lệ cắt cụt chi. Phân tích hồi quy Cox được sử dụng để ước tính tỷ lệ nguy cơ và thời gian từ khi bắt đầu nghiên cứu đến khi lành được đánh giá là thời gian sự kiện kiểm duyệt theo đường cong Kaplan-Meier. Kết quả: 115 bệnh nhân loét bàn chân do đái tháo đường điều trị tại Bệnh viện Hữu Nghị Đa khoa Nghệ An, gồm 64 BN (55,65%) nam giới; tuổi trung bình là 44,4 ± 14,7. Tổng cộng có 34 (29,57%) bệnh nhân loét bàn chân do đái tháo đường thừa cân và 16 (13,91%) bị béo phì - chỉ số khối cơ thể (BMI) trung bình ± độ lệch chuẩn là 24,94 ± 3,69 kg/m2 và tổng cộng có 56 (48,69%) bệnh nhân loét bàn chân do đái tháo đường có biến chứng tiểu đường. Trong số bệnh nhân loét bàn chân do đái tháo đường, 35 (30,43%) đã phải cắt cụt chi dưới (LEA). Tổng cộng 18 (46,15%) bệnh nhân được dùng kháng sinh không phù hợp đã lành bệnh trong khi 21 (53,85%) bệnh nhân không lành bệnh (p = 0,017). Bên cạnh đó, độ Wagner càng cao thì kết quả lành bệnh càng kém. Tổng cộng có 19 (21,84%) và 16 (57,14%) bệnh nhân có độ < 4 và độ ≥ 4 không lành bệnh (p = 0,005). Kết luận: Tỷ lệ cắt cụt chi do loét bàn chân đái tháo đường cao ở những bệnh nhân sử dụng kháng sinh không phù hợp và loét bàn chân ở mức độ nặng. Trịnh Văn Thông, Nguyễn Ngọc Sơn, Nguyễn Viết Thành, Đinh Xuân Chương, Hoàng Văn Châu Copyright (c) 2025 Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/495 Tue, 28 Oct 2025 00:00:00 +0000 Đánh giá độ bền và tính tương tích sinh học trên tế bào của giá thể vô bào từ động mạch cuống rốn người được xử lý bằng Glutaraldehyde https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/485 Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm đánh giá độ bền sinh học, cơ học và tính tương thích tế bào của giá thể vô bào từ động mạch cuống rốn (DUA - Decellularized Umbilical Artery) được xử lý bằng Glutaraldehyde (GA) 0,1%. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Giá thể vô bào động mạch cuống rốn sau khi được xử lý bằng GA 0,1% (G - DUA) được ngâm trong dung dịch PBS (pH 7,4) ở nhiệt độ 370C trong thời gian 2 tuần, 4 tuần và 8 tuần, sự thay đổi về khả năng chịu lực và khối lượng còn lại được so sánh với nhóm mạch chưa được xử lý bằng GA (DUA). Tính tương thích sinh học được đánh giá bằng thử nghiệm độc tính gián tiếp (MTT assay), khả năng di trú (Scratch wound healing assay) và sự bám dính trực tiếp của nguyên bào sợi lên bề mặt giá thể (G - DUA) thông qua nhuộm H&E. Kết quả: Quá trình xử lý bằng Glutaraldehyde cho thấy hiệu quả rõ rệt trong việc cải thiện độ bền của giá thể. Về sự thay đổi khối lượng, tại tuần thứ 4, nhóm DUA đã mất khoảng 25% khối lượng (còn lại 75,2 ± 2,41%), trong khi nhóm G - DUA gần như không thay đổi (101,94 ± 0,77%)1. Sự suy giảm này tiếp diễn đến tuần thứ 8, khối lượng còn lại của nhóm DUA chỉ là 55,38 ± 2,18%, trong khi con số này ở nhóm G - DUA là 99,46 ± 1,361% (p < 0,0001). Tương tự, về độ bền cơ học, khả năng chịu lực của nhóm DUA đã giảm gần một nửa sau 4 tuần (2,886 ± 0,67 N) và tiếp tục giảm mạnh ở tuần thứ 8 (1 ± 0,31 N). Ngược lại, nhóm G - DUA duy trì độ bền tốt hơn một cách đáng kể, với khả năng chịu lực lần lượt là 5,526 ± 0,67 N tại tuần 4 và 4,4 ± 0,58 N tại tuần 8 (p < 0,0001). Về tính tương thích sinh học, kết quả cho thấy dịch chiết từ G - DUA không gây độc cho tế bào; tỷ lệ tế bào sống đạt trên 99% ở tất cả các thời điểm, tương đương với nhóm đối chứng âm PTFE (p > 0,05)1. Giá thể G - DUA cũng không ảnh hưởng đến sự di trú và bám dính của nguyên bào sợi trên bề mặt. Kết luận: Việc xử lý bằng Glutaraldehyde giúp cải thiện đáng kể độ bền cơ học và sinh học của giá thể DUA mà không gây độc tính tế bào nguyên bào sợi chuột trong ống nghiệm. Nguyễn Trung Chức, Trần Nhật Hoàng, Lê Tài Thế, Bùi Khắc Cường, Hoàng Thị Mỹ Nhung, Đỗ Xuân Hai Copyright (c) 2025 Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/485 Tue, 28 Oct 2025 00:00:00 +0000 Ứng dụng kỹ thuật xạ trị bề mặt kết hợp phẫu thuật ghép da mảnh mỏng trong điều trị sẹo lồi diện rộng vùng chi thể sau bỏng https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/425 Đặt vấn đề: Phương pháp điều trị kinh điển đối với những bệnh nhân bỏng sâu diện rộng để lại sẹo có tỷ lệ tái phát cao gần như 100% đồng thời hình thành thêm sẹo lồi tại vị trí lấy da và lấy vạt làm cho tình trạng bệnh nhân nặng nề thêm. Hiện nay, trên thế giới và Việt Nam chưa có giải pháp nào điều trị sẹo lồi diện rộng vùng chi thể và bệnh nhân chấp nhận tàn phế suốt đời. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu sử dụng kỹ thuật xạ trị bề mặt bằng máy xạ trị SRT - 100 kết hợp phẫu thuật ghép da mảnh mỏng trên bệnh nhân có sẹo lồi diện rộng vùng chi thể sau bỏng. Kỹ thuật được tiến hành nhằm nhằm loại bỏ mô sẹo, làm giảm sức căng bề mặt cho bệnh nhân, tránh tái phát sẹo lồi, hạn chế gây thêm sẹo lồi ở những vùng lân cận, vùng da lành khác. Kết quả và bàn luận: Các bệnh nhân trước điều trị có diện tích tổn thương của sẹo trung bình đạt 15 x 8 cm, sẹo co kéo hạn chế vận động các khớp đi kèm cảm giác đau ngứa. Kết quả theo dõi ở thời điểm 6 tháng sau phẫu thuật: Có 6/6 bệnh nhân phục hồi chức năng vận động gần như bình thường, chất lượng sẹo cải thiện 75% so với trước điều trị. Kết luận: Kỹ thuật lần đầu được áp dụng trên thế giới và Việt Nam đã giải quyết hiệu quả những khó khăn trong điều trị sẹo lồi diện rộng hiện nay. Vũ Quang Hiển, Đỗ Trung Quyết, Cao Trung Kiên Copyright (c) 2025 Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/425 Tue, 28 Oct 2025 00:00:00 +0000 Nghiên cứu hiệu quả giảm đau sau phẫu thuật lấy thai bằng kỹ thuật gây tê cơ vuông thắt lưng dưới hướng dẫn siêu âm tại Bệnh viện Hữu Nghị Việt Tiệp https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/463 Đặt vấn đề: Phương pháp giảm đau sau mổ lấy thai bằng kỹ thuật gây tê cơ vuông thắt lưng dưới hướng dẫn siêu âm là một kỹ thuật mới, hiệu quả giảm đau tốt và an toàn cho sản phụ (SP). Mục tiêu: Nhận xét hiệu quả giảm đau sau mổ lấy thai bằng kỹ thuật gây tê cơ vuông thắt lưng dưới hướng dẫn siêu âm và mô tả một số tác dụng không mong muốn của phương pháp trên. Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu trên 30 SP ≥ 18 tuổi, ASA I, II, sau phẫu thuật lấy thai đường ngang trên vệ dưới gây tê tủy sống tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp. Các sản phụ được giảm đau sau mổ bằng gây tê cơ vuông thắt lưng 2 hai bên với mỗi bên là 1 mg/kg - Levobupivacain 0,25%. Phối hợp Diclofenac 100 mg/ngày đặt hậu môn và Paracetamol 10mg/kg mỗi 6 giờ khi đau nhẹ VAS từ 1 - 3. Kết quả: 1. Hiệu quả giảm đau: Thời gian bắt đầu có tác dụng giảm đau sau khi gây tê trung bình là 12,45 ± 2,44 phút. Thời gian giảm đau kéo dài trung bình là 20,85 ± 1,23 giờ. Mức độ đau theo thang điểm VAS: VAS nghỉ ngơi < 2, VAS vận động < 4. Tỷ lệ SP rất hài lòng về chất lượng giảm đau là 70%, hài lòng là 30%. 2. Tác dụng không mong muốn: không có tai biến nghiêm trọng nào xảy ra. Tỷ lệ nôn buồn, nôn là 3,33%, lạnh, run là 6,67%. Kết luận: Giảm đau sau mổ lấy thai bằng kỹ thuật gây tê cơ vuông thắt lưng dưới hướng dẫn siêu âm là kỹ thuật giảm đau hiệu quả và an toàn cho SP. Nguyễn Thị Thu Phương, Vũ Thị Thanh Nga, Phạm Thị Yến, Võ Văn Hiển Copyright (c) 2025 Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/463 Tue, 28 Oct 2025 00:00:00 +0000 Một số đặc điểm dịch tễ thương tích bỏng của học sinh Trường trung Học cơ sở Nguyễn Bỉnh Khiêm, huyện Dầu Tiếng https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/348 yễn Bỉnh Khiêm, huyện Dầu Tiếng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thiết kế mô tả cắt ngang kết hợp với phân tích, thực hiện phát phiếu tự điền cho 352 học sinh tự nguyện tham gia nghiên cứu. Kết quả: Có 33% học sinh đã từng bị bỏng, trong đó nữ (34,9%) nhiều hơn nam giới (31,1%), có 40,5% bị bỏng ít nhất 02 lần trở lên; 81% là bị trên đường đi, 15,5% trong trường học; 46,6% bị ở vùng chi, 25% là đầu-mặt-cổ; 81% là tự điều trị; học sinh từ 14 tuổi trở lên nguy cơ bị bỏng cao gấp 2,34 lần nhỏ tuổi hơn có ý nghĩa thống kê (1,22-4,50; p = 0,01). Kết luận: Tỉ lệ thương tích bỏng ở học sinh trung học cơ sở Nguyễn Bỉnh Khiêm là 33%, cao hơn nhiều địa phương khác. Khác biệt cần triển khai các nghiên cứu chuyên sâu hơn là bỏng ở nữ nhiều hơn nam, bỏng trên đường đi. Nguyễn Bình Phương, Hồ Thị Tuyết Nga, Vũ Hải Thiên Nga Copyright (c) 2025 Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/348 Mon, 17 Nov 2025 00:00:00 +0000 Đánh giá chất lượng của hỗn dịch tế bào da tự thân không nuôi cấy sau bảo quan lạnh sâu https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/494 Đặt vấn đề: Trị liệu tế bào da tự thân không qua nuôi cấy đang dần trở thành một giải pháp tiềm năng trong điều trị vết thương, vết bỏng sâu diện rộng [1, 2]. Sử dụng hỗn dịch tế bào da không qua nuôi cấy là một trong những phương pháp đã được minh chứng có tác dụng tích cực đến quá trình liền vết thương cho bệnh nhân, việc chuẩn hoá quy trình bảo quản lạnh sâu hỗn dịch tế bào da có rất nhiều ý nghĩa khoa học và thiện tiên với các bệnh. Mục tiêu: Đánh giá được chất lượng của tế bào sau bảo quản 4 tuần ở các nồng độ chất bảo quản DMSO khác nhau bằng phương pháp nhuộm xanh Trypan và nuôi cấy tế bào. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 10 miếng da mảnh mỏng (0,25 mm) bằng enzyme trypsin- từ các mẫu da thu hồi trong phẫu thuật ghép da tự thân. Hỗn dịch tế bào sau phân tách được bảo quản lạnh sâu ở -80°C với các nồng độ DMSO khác nhau (9%, 10%, 11%). Sau giã đông, tế bào được đánh giá tỷ lệ sống/ chết bằng nhuộm xanh Trypan và được nuôi cấy chuyên biệt để đánh giá được khả năng phân lập của tế bào. Kết quả: Tỷ lệ tế bào sống trung bình sau tách đạt trung bình khoản trên 80%, cao nhất là 92,1%. Nồng độ DMSO 10% (C2) được xác định là tối ưu cho bảo quản. Sau 4 tuần bảo quản lạnh sâu, tỷ lệ tế bào sống trung bình giảm nhẹ nhưng vẫn duy trì khả năng sống bám dính và phát triển trong môi trường nuôi cấy. Kết luận: Đánh giá được tỷ lệ tế bào sống của hỗn dịch tế bào da tự thân không nuôi cấy sau thời gian bảo quản lạnh sâu; tế bào sau giã đông được nuôi cấy trong môi trường định hướng vẫn đảm bảo khả năng sống sau 6 ngày nuôi cấy, nồng độ chất bảo quản lạnh sau là 10%. Nguyễn Thị Hương, Đinh Văn Hân, Nguyễn Thị Vân Anh, Đinh Thành Hưng, Nguyễn Thị Hồng Liên, Hoàng Văn Tú, Lại Thị Nga Copyright (c) 2025 Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/494 Tue, 28 Oct 2025 00:00:00 +0000 Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân có suy thận cấp sau phẫu thuật tim tại Khoa Hồi sức tích cực, Bệnh viện Quân y 175 https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/449 Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và đánh giá một số yếu tố liên quan đến suy thận cấp (AKI) sau phẫu thuật tim tại khoa Hồi sức tích cực, Bệnh viện Quân y 175. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, theo dõi dọc, so sánh có đối chứng, tiến hành trên 52 bệnh nhân có chẩn đoán suy thận cấp và 50 bệnh nhân không bị suy thận cấp sau phẫu thuật tim từ tháng 01/2023 - 12/2024. Kết quả: Nhóm bệnh có tỷ lệ suy tim NYHA III - IV cao hơn (32,7% so với 16%, p=0,04), SpO₂ thấp hơn (92% so với 96%, p < 0,001), nhịp tim nhanh hơn (85 so với 78 lần/phút, p = 0,03), tiểu ít (23,1% so với 0%, p < 0,001), tỷ lệ suy thận mạn trước mổ (15,4% so với 4%, p = 0,04) và tăng áp động mạch phổi (63,5% so với 36%, p < 0,01) cao hơn đáng kể. Sau mổ, nhóm bệnh có rối loạn chức năng thận rõ rệt (creatinin đỉnh: 210,6 so với 90,2 µmol/L, MLCT thấp nhất: 32,4 so với 85,1 mL/phút/1,73m², p < 0,001), tăng lactat, CRP, rối loạn điện giải và tình trạng toan chuyển hóa. Phần lớn bệnh nhân suy thận cấp giai đoạn I (73,1%), trong đó 7,7% cần lọc máu. Các yếu tố nguy cơ độc lập gồm: tiểu ít (OR = 6,8; p < 0,001), suy thận mạn trước mổ (OR = 4,1; p = 0,036), lactat máu tăng (OR = 1,9; p < 0,001), suy tim NYHA III - IV (OR = 2,8; p = 0,041), tăng áp động mạch phổi (OR = 2,95; p = 0,01), SpO₂ thấp (OR = 0,81; p = 0,001), nhịp tim nhanh (OR = 1,05; p = 0,042) và huyết áp tâm thu thấp (OR = 0,96; p = 0,049). Kết luận: Suy thận cấp sau phẫu thuật tim có liên quan đến nhiều yếu tố lâm sàng và huyết động bất thường trước phẫu thuật, đặc biệt là giảm ô xy hóa mô, rối loạn chức năng tim - thận và tình trạng giảm tưới máu. Bùi Đức Thành, Nguyễn Thành Chung Copyright (c) 2025 Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/449 Tue, 28 Oct 2025 00:00:00 +0000 Khảo sát mức độ stress và các yếu tố liên quan của người nhà bệnh nhân tại Khoa Hồi sức tích cực - Chống độc, Bệnh viện Hữu nghị Việt Nam Cuba, Đồng Hới năm 2024 https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/443 Đặt vấn đề: Khoa Hồi sức tích cực (ICU) của các bệnh viện là nơi tiếp nhận và điều trị các bệnh nhân nguy kịch, đe dọa tính mạng. Việc có người thân điều trị trong môi trường ICU là một trải nghiệm đầy căng thẳng, dễ dẫn đến stress. Mặc dù có nhiều nghiên cứu trên thế giới về vấn đề này, nhưng tại Việt Nam nghiên cứu về stress của người nhà bệnh nhân trong ICU vẫn còn hạn chế. Mục tiêu của nghiên cứu là mô tả mức độ stress và khảo sát các yếu tố liên quan đến stress của người nhà bệnh nhân tại khoa Hồi sức tích cực - chống độc tiêu) Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu sử dụng phương pháp mô tả cắt ngang với 384 đối tượng là người nhà bệnh nhân đủ điều kiện tham gia trong khoảng thời gian từ tháng 5 đến tháng 10 năm 2024. Công cụ được sử dụng là thang đo DASS-21 và bộ câu hỏi có sẵn. Dữ liệu thu thập được phân tích bằng phần mềm SPSS. Kết quả: Kết quả nghiên cứu cho thấy 41,7% người nhà bệnh nhân có stress, trong đó 63,8% ở mức độ nhẹ, 25,6% mức độ vừa, 8,7% mức độ nặng và 1,9% mức độ rất nặng. Các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ stress bao gồm độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp, trình độ học vấn, mối quan hệ với bệnh nhân, khả năng chi trả viện phí, điều kiện kinh tế gia đình, điều kiện phòng chờ, và thời gian trao đổi thông tin với nhân viên y tế với p<0.05 Kết luận: Stress ở người nhà bệnh nhân ICU là một vấn đề nghiêm trọng cần được can thiệp kịp thời với nhiều yếu tố liên quan có thể can thiệp được. Vì vậy, cần triển khai các biện pháp hỗ trợ tâm lý để giảm thiểu tác động tiêu cực của stress đối với người nhà bệnh nhân. Nguyễn Thị Tình, Phạm Thị Hiến Copyright (c) 2025 Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/443 Tue, 28 Oct 2025 00:00:00 +0000 Đánh giá ảnh hưởng của nồng độ Trypsin - Edta đến hiệu quả tách tế bào và bảo toàn cấu trúc da trong chế tạo tấm trung bì da đồng loại không tế bào https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/511 Tấm trung bì da người không tế bào (hADM) là vật liệu sinh học có nguồn gốc từ da người, được loại bỏ hoàn toàn lớp biểu bì và các thành phần tế bào của lớp trung bì, trong khi vẫn giữ lại cấu trúc collagen của trung bì. Mục tiêu: Đánh giá ảnh hưởng của nồng độ enzyme Trypsin - EDTA đến hiệu quả tách tế bào và mức độ bảo toàn cấu trúc trung bì, nhằm xác định nồng độ tối ưu trong quy trình chế tạo hADM. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện trên 30 mẫu da người hiến, chia ngẫu nhiên thành 3 nhóm (n = 10), xử lý với 3 nồng độ Trypsin - EDTA khác nhau: 0,5X (0,125%), 1X (0,25%) và 1,5X (0,375%). Mỗi mẫu trải qua quy trình đông - rã, sau đó được xử lý enzyme hai bước: Ngâm ở 40C trong 24 giờ, rồi ủ ở 370C trong 3 giờ. Hiệu quả tách biểu bì và loại bỏ tế bào được đánh giá bằng chỉ số tách biểu bì và phân tích mô học. Kết quả: Tăng nồng độ Trypsin - EDTA có mối tương quan rõ rệt với tỷ lệ tách biểu bì cao hơn sau xử lý enzyme ở 40C trong 24 giờ (p < 0,05), lần lượt là 15,24 ± 8,94%; 36,84 ± 7,44% và 45,99 ± 7,10%. Sau xử lý enzyme ở 370C trong 3 giờ, tỷ lệ tách biểu bì tiếp tục tăng, tương ứng từ 28,25 ± 10,33% đến 93,98 ± 13,08% và 95,47 ± 11,99%; tuy nhiên sự khác biệt giữa nhóm 1X và 1,5X không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Hình ảnh mô học xác nhận loại bỏ hoàn toàn tế bào ở cả ba nhóm. Tuy nhiên, nhóm 1,5X cho thấy cấu trúc collagen bị phá vỡ nhiều hơn, mật độ sợi giảm và phân bố lỏng lẻo hơn. Kết luận: Trypsin - EDTA là enzyme hiệu quả trong tách biểu bì và loại tế bào khi chế tạo hADM. Nồng độ 0,25% (1X) được xác định là tối ưu, giúp đạt hiệu quả loại bỏ tế bào cao đồng thời bảo tồn tốt cấu trúc collagen. Ngô Ngọc Hà, Phạm Thị Huế, Đinh Tiến Chung, Nguyễn Thị Thu Hà, Nguyễn Tiến Dũng Copyright (c) 2025 Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/511 Tue, 28 Oct 2025 00:00:00 +0000 Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng bệnh viêm quanh răng ở người bệnh đái tháo đường tuýp 2 https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/493 Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và phân tích một số yếu tố liên quan đến bệnh viêm quanh răng (VQR) ở người bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) týp 2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 50 Người bệnh ĐTĐ týp 2 được điều trị tại Bệnh viện Quân y 103. Các chỉ số nha khoa (GI, OHI-S, PD, CAL, lung lay răng) và chỉ số đường huyết (HbA1c) đã được thu thập và phân tích. Kết quả: Tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là 64,94 ± 8,41. Có 92% người bệnh được chẩn đoán VQR (68% mức độ nặng, 24% mức độ trung bình), và 8% có viêm lợi. HbA1c trung bình là 7,75 ± 0,62%, cho thấy đa số Người bệnh (98%) chưa kiểm soát tốt đường huyết. Các chỉ số quanh răng đều ở mức cao: GI (1,54 ± 0,53), OHI-S (2,89 ± 0,97), PD (5,84 ± 0,81 mm), và CAL (2,97 ± 1,38 mm). Mức độ nặng của bệnh VQR có liên quan chặt chẽ với mức HbA1c cao (≥7,5%), thời gian mắc bệnh kéo dài (≥5 năm) và tuổi cao (≥60). Người bệnh có HbA1c ≥ 7,5% có nguy cơ bị VQR nặng cao gấp 4,36 lần (p<0,05). Kết luận: Người bệnh ĐTĐ týp 2 có tỷ lệ mắc và mức độ nặng của bệnh bệnh viêm quanh răng cao. Việc kiểm soát đường huyết kém, thời gian mắc bệnh dài và tuổi cao là những yếu tố liên quan có ý nghĩa đến sự tiến triển của bệnh. Admin Manager; Mai Đức Hạnh, Nguyễn Minh Hiếu, Vũ Khim Khánh Copyright (c) 2025 Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/493 Tue, 28 Oct 2025 00:00:00 +0000 Đánh giá tình hình sử dụng kháng sinh trong điều trị vết thương mạn tính trên bệnh nhân tổn thương tủy sống tại Trung tâm Liền vết thương, Bệnh viện Bỏng Quốc gia Lê Hữu Trác https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/433 Mục đích: Thực trạng sử dụng và đánh giá tính hợp lý trong lựa chọn, sử dụng kháng sinh tại Trung tâm Liền vết thương (Bệnh viện Bỏng Quốc gia Lê Hữu Trác). Đối tượng, phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu trên 173 bệnh nhân (trên 16 tuổi) tổn thương tuỷ sống, có vết thương mạn tính điều trị tại trung tâm liền vết thương, Bệnh viện Bỏng Quốc gia Lê Hữu Trác từ 01/01/2019 đến 31/12/2019. Kết quả: Kháng sinh được chỉ định bao gồm các nhóm β-lactam, quinolon, aminoglycosid và macrolid. Trong đó nhóm ampicillin + sulbactam có số lượt chỉ định cao nhất (139), tiếp theo là moxifloxacin (131 chỉ định) và cefepim (81 chỉ định). Tỷ lệ sử dụng kháng sinh đơn độc (61,89%) cao hơn phác đồ kết hợp. Vẫn còn chỉ định có liều dùng (16,63%), khoảng cách đưa liều (22,73%) kháng sinh chưa phù hợp khuyến cáo. Kết luận: Cần nghiên cứu xây dựng hướng dẫn lựa chọn kháng sinh ban đầu trong điều trị nhiễm khuẩn VTMT dựa trên đặc điểm dịch tễ của khoa cũng như hướng dẫn sử dụng với từng nhóm thuốc kháng sinh cụ thể trên các đối tượng bệnh nhân. Nguyễn Thị Thu Hương Copyright (c) 2025 Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/433 Tue, 28 Oct 2025 00:00:00 +0000 Tổn thương thận cấp do nhiễm trùng huyết https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/496 Tổn thương thận cấp do nhiễm trùng huyết (sepsis-associated AKI, SA-AKI) thường gặp ở các bệnh nhân nặng, nguy kịch và là yếu tố làm gia tăng mức độ nặng cũng như tỷ lệ tử vong. Cơ chế bệnh sinh phức tạp với sự tham gia của nhiều yếu tố như rối loạn tuần hoàn đại tuần hoàn và vi tuần hoàn, rối loạn chức năng ty thể và thay đổi chuyển hóa tế bào. Quá trình hồi phục sau AKI phụ thuộc vào sự cân bằng giữa các cơ chế sửa chữa thích nghi (sửa chữa nội mô, tái tạo tế bào ống thận) và sửa chữa không thích nghi – vốn làm tăng nguy cơ tiến triển thành bệnh thận mạn. Chiến lược điều trị hiện nay tập trung vào phát hiện sớm và xử trí kịp thời nhiễm trùng huyết, bao gồm kháng sinh thích hợp, hồi sức dịch và sử dụng thuốc vận mạch khi cần. Bên cạnh đó, hỗ trợ chức năng cơ quan là rất quan trọng, đặc biệt là chỉ định liệu pháp thay thế thận (RRT) trong trường hợp AKI nặng, mặc dù thời điểm khởi đầu và liều lượng RRT tối ưu vẫn còn nhiều tranh luận. Võ Văn Hiển, Hà Huy Dương, Nguyễn Trung Kiên, Lê Việt Thắng, Nguyễn Văn Tâm, Lê Đình Nam, Trần Quốc Thắng, Phan Bá Danh, Đỗ Văn Bính, Lê Hữu Nhượng Copyright (c) 2025 Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/496 Tue, 28 Oct 2025 00:00:00 +0000 Khủng hoảng kháng kháng sinh: Thách thức và định hướng ứng phó https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/434 Kháng kháng sinh (AMR) đang nổi lên như một trong những thách thức lớn nhất của y học hiện đại, đặc biệt tại các quốc gia có gánh nặng bệnh nhiễm trùng cao như Việt Nam. Sự gia tăng nhanh chóng của các chủng vi khuẩn đa kháng, kháng toàn diện khiến nhiều ca nhiễm trùng trở nên khó điều trị, thậm chí không còn lựa chọn hiệu quả. Bài viết này trình bày tổng quan về tiến trình hình thành AMR, các cơ chế kháng thuốc phổ biến, nhóm vi khuẩn nguy hiểm (ESKAPE). Bên cạnh đó, bài viết phân tích tình hình sử dụng kháng sinh tại Việt Nam và đưa ra một số định hướng ứng phó, đặc biệt từ góc độ dược lâm sàng và quản lý kháng sinh hợp lý. Nguyễn Thị Hồng Thắm, Nguyễn Thị Hồng Thanh, Ngô Minh Đức, Nguyễn Như Lâm, Ngô Thị Xuân Thu, Đặng Thị Thủy Copyright (c) 2025 Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/434 Tue, 28 Oct 2025 00:00:00 +0000 Điều trị thành công một trường hợp viêm da mủ hoại thư (PG) https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/497 Pyoderma gangrenosum (PG) là một bệnh loét da hiếm gặp, đặc trưng bởi tình trạng thâm nhiễm bạch cầu trung tính, thường liên quan đến các bệnh tự miễn. Bệnh biểu hiện trên lâm sàng là các vết loét da tiến triển nhanh, đau, có bờ không rõ ràng và vùng ban đỏ xung quanh. Cơ chế bệnh sinh của PG vẫn chưa được hiểu rõ, nhưng được cho là liên quan đến rối loạn điều hòa miễn dịch và rối loạn chức năng bạch cầu trung tính. PG thường gặp ở những bệnh nhân có bệnh viêm ruột (IBD) và viêm khớp. Mặc dù đã có nhiều tiêu chuẩn chẩn đoán được đưa ra nhưng chưa có tiêu chuẩn chẩn đoán được chấp nhận rộng rãi. Hiện cũng chưa có hướng dẫn điều trị chuẩn hóa cho PG. Chiến lược điều trị phụ thuộc vào mức độ nặng và tiến triển của bệnh, trong đó corticosteroid toàn thân, thuốc ức chế miễn dịch và các liệu pháp sinh học là những phương pháp điều trị chủ đạo. Chăm sóc vết thương thích hợp và xử trí các bệnh lý nền là yếu tố quan trọng giúp cải thiện kết quả điều trị. Admin Manager; Nguyễn Thị Bích Phượng, Đinh Văn Hân Copyright (c) 2025 Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/497 Tue, 28 Oct 2025 00:00:00 +0000 Ứng dụng phẫu thuật nội soi đa khoang trong xử trí biến chứng sau tiêm chất làm đầy nâng ngực https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/486 Mục tiêu: Trình bày kinh nghiệm ứng dụng phẫu thuật nội soi đa khoang trong xử trí biến chứng do tiêm chất làm đầy (filler) nâng ngực, làm rõ ưu điểm: ít xâm lấn, chính xác, thẩm mỹ và giảm tỷ lệ tái phát. Đối tượng và Phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu 4 bệnh nhân bị biến chứng sau tiêm filler được xử trí bằng phẫu thuật nội soi qua các đường tiếp cận khác nhau (quầng vú, chân ngực, nách), với chiến lược “nội soi đa khoang”. Xác định chính xác vị trí khoang trước mổ dựa vào khám lâm sàng, siêu âm và MRI. Đánh giá kết quả gần, kết quả xa ít nhất 6 tháng cho đến 24 tháng sau mổ. Kết quả: Các bênh nhân nữ, độ tuổi từ 18 - 33. Đã tiêm chất làm đầy nâng ngực không phép với các sản phẩm khác nhau (PAAG, copolyamide/Aquafilling, filler không rõ loại, HA). Phẫu thuật nội soi cho phép quan sát rõ ràng dưới màn hình phóng đại, lấy bỏ toàn bộ các chất làm đầy. Phẫu thuật ít xâm lấn cho phép hồi phục nhanh, ít đau giảm, sẹo nhỏ và thẩm mỹ; không ghi nhận tái phát trong thời gian theo dõi 6 - 24 tháng. Kết luận: Phẫu thuật nội soi đa khoang là phương án hiệu quả, an toàn và thẩm mỹ để xử trí biến chứng filler ngực. Việc kết hợp đánh giá hình ảnh trước mổ (US/MRI) và lựa chọn đường tiếp cận phù hợp là then chốt để đạt kết quả tốt. Theo tìm hiểu y văn thì đây có thể là bài báo đầu tiên trên thế giới về áp dụng kỹ thuật này trên lâm sàng. Nguyễn Hồng Hà, Nguyễn Thúy Hà Copyright (c) 2025 Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/486 Tue, 28 Oct 2025 00:00:00 +0000 Bước đầu ứng dụng chụp nhiệt hồng ngoại động trong phẫu thuật thu gọn vú phì đại https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/522 Mục tiêu: Đánh giá khả năng ứng dụng kỹ thuật chụp nhiệt hồng ngoại động (DIRT) trong xác định các nhánh động mạch nuôi phức hợp quầng núm vú (QNV) trước phẫu thuật thu gọn vú, cũng như khảo sát vai trò của DIRT trong đánh giá tuần hoàn QNV trong mổ và sau mổ. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả tiến cứu cắt ngang trên 20 bệnh nhân nữ bị phì đại tuyến vú mức độ nhiều hoặc khổng lồ, được phẫu thuật thu nhỏ tuyến vú. Bệnh nhân được khảo sát trước mổ bằng DIRT, siêu âm Doppler màu và chụp CLVT có tiêm thuốc cản quang. DIRT tiếp tục được thực hiện trong mổ và sau mổ. Kết quả: Trung bình mỗi vú phát hiện 2,25 nhánh động mạch bằng DIRT, tương đương với Doppler và cao hơn CLVT (1,80). Mức độ tương đồng vị trí giữa DIRT và Doppler đạt tối đa 78,26%. Các nhánh được phát hiện có đường kính ≥ 0,8 mm, độ sâu ≤ 64,40 mm. Phân tích hồi quy tuyến tính đơn trong nhóm các nhánh động mạch có mức độ tương đồng cấp 1 giữa DIRT và siêu âm Doppler cho thấy mối tương quan thuận chiều có ý nghĩa thống kê giữa tốc độ dòng chảy và tốc độ hồi nhiệt. Ghi nhận 01 vú thiểu dưỡng QNV 1 phần, không có hoại tử toàn bộ QNV. Kết luận: DIRT là phương pháp an toàn, không xâm lấn, có tiềm năng ứng dụng trong đánh giá tuần hoàn QNV trước, trong và sau phẫu thuật thu gọn vú. Cần nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn để xác định rõ ngưỡng phát hiện và độ chính xác lâm sàng. Lê Trung Kiên, Nguyễn Hồng Hà Copyright (c) 2025 Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/522 Tue, 28 Oct 2025 00:00:00 +0000 Hiệu quả của gel Prontosan trong điều trị bỏng Trẻ em: Phân tích loạt bệnh https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/516 Bỏng trẻ em là một vấn đề y tế nghiêm trọng, đặc biệt ở các nước đang phát triển, nơi có tỷ lệ tử vong và biến chứng cao. Nghiên cứu này phân tích năm ca lâm sàng được điều trị bằng Prontosan Wound Gel X, nhằm đánh giá hiệu quả của sản phẩm trong việc kiểm soát nhiễm khuẩn, thúc đẩy quá trình tái tạo mô và cải thiện chất lượng sẹo sau bỏng. Kết quả cho thấy Prontosan giúp vết thương lành nhanh hơn, ít để lại sẹo hơn so với Povidon-Iodine 10%, đồng thời giảm nguy cơ nhiễm trùng, kể cả trong ca bệnh có diện tích bỏng rộng và cần can thiệp phẫu thuật cắt hoại tử, ghép da. Việc kết hợp Prontosan với băng Anson, Therasob, BluMembrane giúp duy trì độ ẩm, giảm đau và hạn chế mất nước, từ đó rút ngắn thời gian điều trị. Tính an toàn của Prontosan cũng được khẳng định khi không ghi nhận biến chứng nghiêm trọng nào trong nghiên cứu. Mặc dù còn một số hạn chế về quy mô mẫu và tính hồi cứu, kết quả này cho thấy Prontosan là một phương pháp điều trị bỏng nhi khoa hiệu quả, an toàn, và có tiềm năng ứng dụng rộng rãi trong thực hành lâm sàng. Dương Văn Phú Copyright (c) 2025 Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/516 Tue, 28 Oct 2025 00:00:00 +0000 Điều trị thành công bệnh nhân cao tuổi bỏng sâu diện rộng: Báo cáo ca lâm sàng https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/423 Bệnh nhân nữ 73 tuổi, bỏng 23%(21%) độ III, IV diện tích cơ thể do bỏng lửa, được điều trị tích cực phẫu thuật cắt hoại tử, ghép da tự thân và phối hợp kháng sinh theo diễn biến lâm sàng. Dù tuổi cao và nhiễm khuẩnvết thương phức tạp (trực khuẩn mủ xanh Pseudomonas aeruginosa và nấm Candida tropicalis trong nước tiểu), bệnh nhân hồi phục sau 64 ngày nhờ phối hợp đa chuyên khoa, kiểm soát nhiễm khuẩn và dinh dưỡng tối ưu. Bài học rút ra nhấn mạnh vai trò của việc lựa chọn thời điểm và phương thức can thiệp phẫu thuật hợp lý, sử dụng kháng sinh, và chăm sóc toàn diện dưới tinh thần làm việc nhóm hiệu quả. Trần Quang Phú, Lê Thị Thu Huyền, Đỗ Hoàng Vân, Thị Thu Nga, Nguyễn Thị Thu Hoài Copyright (c) 2025 Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/423 Tue, 28 Oct 2025 00:00:00 +0000 Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng bệnh nhân ung thư vú giai đoạn I - II https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/488 Mục tiêu: Mô tả một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng bệnh nhân ung thư vú giai đoạn I-II. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang, không nhóm chứng trên 103 bệnh nhân ung thư vú giai đoạn I - II được chẩn đoán, điều trị tại Bệnh viện Quân y 175 từ tháng 2/2018 đến 6/2022. Kết quả: Tuổi bệnh nhân thấp nhất là 21 tuổi, tuổi cao nhất là 76 tuổi, tuổi trung vị là 44. Nhóm tuổi hay gặp nhất là từ 40 - 59 tuổi chiếm 65%. Vị trí một phần tư trên ngoài thường gặp nhất, chiếm 56,3%. Có 63 bệnh nhân vú trái chiếm tỷ lệ 61,2%. Thể ống xâm nhập thường gặp nhất chiếm tỷ lệ 74,8%. Chiếm tỷ lệ cao nhất là bệnh nhân thuộc nhóm Luminal A với 39,8%, theo sau đó là nhóm Luminal B/HER2 âm tính với 32%, nhóm dạng đáy với 16,5%, nhóm HER2 (+) với 8,7% và thấp nhất là nhóm Luminal B/HER2 (+) với 2,9%. Phần lớn bệnh nhân trong nghiên cứu ở giai đoạn I chiếm 51,4%, theo sau là giai đoạn IIA với 37,9%. Kết luận: Độ tuổi hay gặp ung thư vú nhất là từ 40 - 59 tuổi, thường ở vị trí một phần tư trên ngoài. Ung thư vú thể ống xâm nhập là phổ biến nhất. Chiếm tỷ lệ cao nhất là bệnh nhân thuộc nhóm Luminal A. Lê Minh Phong, Lê Minh Tân, Tống Đức Minh Copyright (c) 2025 Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/488 Tue, 28 Oct 2025 00:00:00 +0000 Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và X - quang của bệnh nhân sai khớp cắn loại II tại khoa răng, Bệnh viện Quân y 103 https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/467 Mục tiêu: Mô tả một số đặc điểm lâm sàng, Xquang trên phim sọ nghiêng và mẫu hàm thạch cao của bệnh nhân sai khớp cắn loại II. Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 69 bệnh nhân sai khớp cắn loại II xương tại Khoa Răng, Bệnh viện Quân y 103 từ 8/2024 đến 6/2025. Kết quả: nữ giới chiếm 78,26% và nam giới 21,74%, tuổi trung bình 24,5 (14-53). Về đặc điểm lâm sàng ngoài mặt, 100% bệnh nhân có kiểu mặt lồi, 78,3% hở răng khi nghỉ, 46,7% có thói quen xấu. Kiểu mặt mở chiếm ưu thế (chiều cao tầng mặt dưới giảm 43,2%). Hình dạng cung răng oval là phổ biến nhất (70,3%). Chỉ số PAR trung bình trước điều trị là 34,45±10,95, với 69,6% trường hợp sai lệch khớp cắn nặng (PAR>30). Về đặc điểm xương, góc ANB trung bình là 6,61±1,71°, SNA là 83,91±9,89°, SNB là 78,37±3,62°. Góc GoGn-SN trung bình là 34,86±5,78°. Các chỉ số răng cho thấy độ nhô của răng cửa trên với U1-SN là 112,77±8,88°, góc liên trục răng cửa U1-L1 là 111,54±9,17°. Các chỉ số mô mềm cho thấy góc mũi môi là 90,41±13,49°, môi trên và môi dưới đều nhô ra trước so với đường thẩm mỹ E (Ls-E 2,11±1,86mm, Li-E 4,18±2,15mm). Kết luận: Bệnh nhân sai khớp cắn loại II tại Khoa Răng, Bệnh viện Quân y 103 có đặc điểm lâm sàng và X quang phức tạp, với tỷ lệ sai lệch khớp cắn nặng cao, kiểu mặt lồi, răng cửa hai hàm ngả trước và sự bất cân xứng xương hàm trên và dưới đáng kể theo chiều trước sau và chiều đứng. Trần Thị Kim Liên, Nguyễn Danh Long, Vũ Hữu Trung, Đỗ Chí Hùng, Đỗ Chí Hùng Copyright (c) 2025 Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/467 Tue, 28 Oct 2025 00:00:00 +0000