Nghiên cứu hiệu quả điều trị giữa phác đồ đơn trị liệu Colistin với phác đồ phối hợp Colistin - Carbapenem trên bệnh nhân nhiễm khuẩn nặng do vi khuẩn gram âm kháng Carbapenem

Nguyễn Thị Thu Hương1
1 Bệnh viện Bỏng Quốc gia Lê Hữu Trác

Nội dung chính của bài viết

Tóm tắt

Mục tiêu nghiên cứu: Trong nghiên cứu này, phác đồ phối hợp Colistin - Carbapenem được chỉ định để điều trị vi khuẩn Gram âm kháng Carbapenem. Mục đích của chúng tôi là kiểm tra xem liệu liệu pháp phối hợp này có cải thiện hiệu quả điều trị lâm sàng trên người trưởng thành bị nhiễm Gram âm kháng Carbapenem hoặc Gram âm sinh Carbapenemase hay không.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu đối chứng ngẫu nhiên so sánh, thực hiện tại 6 bệnh viện ở Israel, Hy Lạp và Italy.
Đối tượng nghiên cứu là các bệnh nhân (người lớn) bị nhiễm khuẩn huyết, viêm phổi thở máy, viêm phổi bệnh viện hoặc nhiễm khuẩn huyết khởi phát từ nhiễm khuẩn tiết niệu do vi khuẩn Gram âm đề kháng Carbapenem. Thử nghiệm nhãn mở, đánh giá kết quả mù.
 Bệnh nhân được chia ngẫu nhiên trên máy tính làm hai nhóm (1:1): Colistin tiêm tĩnh mạch liều nạp 9 triệu UI sau đó duy trì liều 4,5 triệu UI hai lần trong ngày hoặc kết hợp Colistin và Carbapenem (2g truyền tĩnh mạch 3 lần mỗi ngày). Đánh giá kết quả là thành công khi khỏi bệnh, huyết động ổn định, điểm SOFA không thay đổi hoặc cải thiện, tỷ số PaO2/FiO2 ở bệnh nhân viêm phổi ổn định hoặc cải thiện, cấy máu không mọc ở bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết. Thất bại trên lâm sàng khi không đạt tất cả các tiêu chí thành công dựa trên phân tích mục tiêu điều trị, đánh giá sau 14 ngày điều trị kể từ khi được chọn ngẫu nhiên.
Kết quả: Từ 1/10/2013 đến 31/12/2016, chúng tôi đã lựa chọn ngẫu nhiên 406 bệnh nhân vào 2 nhóm điều trị. Hầu hết bệnh nhân bị viêm phổi hoặc nhiễm khuẩn huyết (355/406, 87%), đa số các nhiễm khuẩn do A.baumannii (312/406, 87%). Không có khác biệt đáng ghi nhận giữa phác đồ đơn trị liệu Colistin (156/198, 79%) với phác đồ phối hợp (152/208, 73%) gây thất bại lâm sàng trong 14 ngày điều trị sau khi phân nhóm ngẫu nhiên (khác biệt rủi ro -5,7%, 95% CI, -13,9-2,4; tỷ lệ rủi ro [RR] 0,93, 95% CI 0,83-1,03). Kết quả tương tự trong nhóm bệnh nhân nhiễm khuẩn A.baumannii (RR 0,97, 95% CI 0,87-1,09). Điều trị kết hợp làm tăng tỷ lệ tiêu chảy (56 (27%) so với 32 (16%) bệnh nhân) và giảm tỷ lệ suy thận nhẹ (37 (30%) trên 124 so với 25 (20%) trên 125 bệnh nhân có nguy cơ tổn thương thận).
Kết luận: Phác đồ phối hợp không vượt trội hơn so với phác đồ đơn trị liệu. Việc kết hợp thêm Meropenem với Colistin không cải thiện tình trạng thất bại lâm sàng ở những bệnh nhân nhiễm khuẩn A.baumannii.

Chi tiết bài viết